Các điều kiện về phòng vệ chính đáng và ví dụ về phòng vệ chính đáng

Bài viết dưới đây sẽ tập trung khám phá và phân tích ví dụ về phòng vệ chính đáng để làm sáng tỏ những tình huống nơi sự phòng vệ trở nên không chỉ là hành động cần thiết mà còn là một quyết định đúng đắn và công bằng. Những ví dụ minh họa sẽ giúp hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của phòng vệ chính đáng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau.

Các điều kiện về phòng vệ chính đáng và ví dụ về phòng vệ chính đáng

Các điều kiện về phòng vệ chính đáng và ví dụ về phòng vệ chính đáng

Phòng vệ chính đáng – 25 Bộ luật Hình sự năm 2015

Năm 2015, Việt Nam thực hiện quá trình hóa pháp hóa lần thứ ba đối với hệ thống pháp luật hình sự, tạo ra Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 với nhiều sửa đổi và bổ sung nhằm nâng cao tính hiện đại và phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã hội của đất nước. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 đã phải trải qua quá trình sửa đổi và bổ sung ngay sau khi ban hành do xuất hiện một số lỗi kỹ thuật. Cuối cùng, BLHS năm 2015 đã được cập nhật thông qua Luật số 12/2017/QH14 ngày 20 tháng 06 năm 2017 của Quốc hội, điều chỉnh và bổ sung một số điều khoản của BLHS số 100/2015/QH13. Luật này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.

Chế định phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 22 BLHS năm 2015: 

"Điều 22. Phòng vệ chính đáng

1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này. "

Tính chung, các quy định về phòng vệ chính đáng trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 có xu hướng thừa hưởng đáng kể toàn bộ nội dung từ BLHS năm 1999. Tuy nhiên, những thay đổi nhỏ nhưng ý nghĩa đã được thêm vào bởi nhóm người soạn thảo Điều luật này.

Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã đặt ưu tiên bảo vệ lợi ích chính đáng của cá nhân và người khác trước lợi ích của nhà nước và tổ chức. Điều này phản ánh tinh thần tôn trọng quyền tự do cá nhân và bảo vệ quyền con người, như được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, điều này cũng phản ánh thực tế đã xảy ra trong thời kỳ áp dụng BLHS năm 1999, khi các trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá giới hạn chính đáng thường phát sinh từ việc bảo vệ lợi ích cá nhân hoặc lợi ích của người thân bị xâm phạm.

Thứ hai, BLHS năm 1999 chỉ đề cập đến việc "bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức" và "người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự". Ngược lại, BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi bảo vệ lợi ích bằng cách thêm vào cụm từ "của cơ quan" và chi tiết hóa trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng bằng cách đưa vào cụm từ "theo quy định của Bộ luật này". Do đó, quy định mới trong BLHS năm 2015 đã tăng cường minh bạch về nội dung lợi ích được bảo vệ thông qua hành vi phòng vệ chính đáng và rõ ràng hơn về phạm vi trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.

Các điều kiện về phòng vệ chính đáng và ví dụ về phòng vệ chính đáng

Các điều kiện về phòng vệ chính đáng và ví dụ về phòng vệ chính đáng

Các điều kiện về phòng vệ chính đáng và ví dụ về phòng vệ chính đáng

Điều 22 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã đề ra các điều kiện cơ bản để xác định cơ sở, nội dung và phạm vi của quyền phòng vệ chính đáng. Một hành vi chỉ được coi là phòng vệ chính đáng khi thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu, phản ánh sự phù hợp với lợi ích của xã hội. Các điều kiện này nhằm mục đích ngăn chặn sự tấn công bất hợp pháp và giảm thiểu thiệt hại có thể xảy ra do sự tấn công đe doạ.

Một cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng – có hành vi trái pháp luật đang xâm phạm đến các lợi ích hợp pháp. 

Nhà nước cho phép công dân có quyền tự bảo vệ chống lại những hành vi tấn công xâm phạm lợi ích hợp pháp. Điều này có thể được hiểu là sự ủy quyền từ Nhà nước để người dân có thể thực hiện các biện pháp ngăn chặn hành vi phạm tội. Do đó, quyền tự vệ là quan trọng khi một người phải đối mặt với hành vi trái pháp luật đang xâm phạm lợi ích chính đáng, bao gồm quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, người khác, Nhà nước, và các tổ chức.

Hành vi xâm phạm là khi một người bắt đầu và chưa kết thúc hành vi trái pháp luật. Một ví dụ cụ thể là:

Ngày 19.12.2010, gia đình Hoàng Văn H có nợ tiền mua xe ô tô của Hồ Văn C là anh trai của Hồ Anh N. Tháng 5 năm 2016, Hồ Anh N đến nhà H để đòi tiền H và N thỏa thuận H sẽ trả cho N số tiền 15.000.000VNĐ, do lúc đó H có việc bận nên hẹn N hôm khác xuống làm giấy tờ. Khoảng 15 giờ ngày 19.6.2016, N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 30L905599, màu đen đến nhà H để làm giấy hẹn. Khi Hồ Anh N đến nhà H thì Lường Thị Q là con dâu của H nói H đang say rượu ngủ trong phòng, N vào gọi H dậy thì xảy ra mâu thuẫn, cãi vã qua lại, hai bên xô đẩy vật nhau ra đến bậc lên xuống từ sân lên nhà thì N bỏ H ra và đi ra phía ngoài công thì H đi ra gần cửa bếp, cạnh chuồng gà lấy 01 con dao nhọn, cầm trên tay phải chạy đuổi theo N và giơ dao lên chém về phía sau người N, N quay người lại giơ tay lên đỡ nhưng lưỡi dao của H chém trúng vào mặt của N, N dùng tay trái túm vào cổ tay phải của H đang cầm dao, N và H ôm nhau xô đẩy đến đầu nhà thì N dùng chân ngáng, vật H xuống đất, lúc này N vẫn dùng tay trái túm giữ cổ tay phải của H và dùng đầu gối chân phải đè lên người H. N dùng tay đấm liên tiếp vào đầu và mặt H để H buông dao ra. Khi N đánh vào đầu và mặt H để H buông dao ra nhưng H vẫn giữ chặt con dao nên N dùng tay phải nắm lấy lưỡi dao để giằng lấy con dao, do lưỡi dao và chuôi dao bị lỏng nên phần lưỡi dao tuột khỏi chuối nên N đã cầm và ném lưỡi dao ra cách chỗ N và H khoảng 2 mét, rồi N đứng dậy. Trong tình huống này, có thể thấy hành vi vi phạm pháp luật của H đang diễn ra, hành vi này đã bắt đầu tư khi H tấn công N và vẫn chưa kết thúc do H chưa dừng hành vi tấn công đó lại. Do đó, khi này N chống trả lại H và gây thương tích cho H nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội của H là trường hợp phòng vệ chính đáng. 

Nếu hành vi chưa bắt đầu, tức là hành vi xâm phạm chưa diễn ra và không đe dọa xảy ra ngay tức khắc, mọi hành vi chống trả không được coi là phòng vệ. Đối với trường hợp hành vi xâm phạm đã kết thúc, mọi hành vi chống trả cũng không được xem là phòng vệ. Tuy nhiên, nếu sau hành vi xâm phạm đã kết thúc, có hành vi khác tiếp theo của chính người đó xâm phạm đến lợi ích cần bảo vệ, thì hành vi chống trả vẫn được xem là phòng vệ.

Trong trường hợp phòng vệ chính đáng, người có hành vi chống trả thường bị nhầm lẫn với trường hợp tội phạm do tinh thần bị kích động mạnh, như quy định tại Điều 125, 135 BLHS. Điều này xuất phát từ việc người bị tấn công không phải là người chống trả (người có hành vi phòng vệ), mà là người thứ ba. Tuy nhiên, người thứ ba trong trường hợp phòng vệ có thể là người thân của người phòng vệ, hoặc một người không quen biết. Trường hợp này cũng có thể bị nhầm với trường hợp phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh, nơi người bị xâm phạm chỉ có thể là người thân của người phạm tội. Sự phân biệt giữa hành vi phòng vệ và hành vi được coi là bị kích động tinh thần chỉ nằm ở tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm.

Mức độ nghiêm trọng ở đây phụ thuộc vào tính quan trọng của mối quan hệ xã hội bị xâm phạm (mối quan hệ xã hội cần bảo vệ) và hậu quả mà hành vi có thể gây ra. Nếu mối quan hệ xã hội cần bảo vệ càng quan trọng, thì hậu quả của hành vi phạm tội càng nghiêm trọng. Ví dụ: Một người đột nhập vào nơi cất giữ tài liệu an ninh quốc phòng được bảo vệ nghiêm ngặt sẽ tạo ra hậu quả nghiêm trọng hơn so với việc đột nhập vào nhà một gia đình nông dân để trộm cắp tài sản.

Mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm còn phụ thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công của nạn nhân (người có hành vi xâm phạm). Ví dụ: Hành vi đe dọa đánh bom trên một chuyến bay sẽ có tính nguy hiểm cao hơn nhiều so với hành vi ăn cắp vặt hoặc hành vi đánh lộn.

Nếu hành vi xâm phạm không có tính chất hoặc mức độ nguy hiểm đáng kể, thì việc chống trả một cách đáng kể không được xem là hành động phòng vệ.

Ví dụ: “Ngày 25/8/2016, Phạm Quốc H chở vợ cùng con 8 tháng tuổi về nhà ngoại ở xã Vĩnh Ngọc, Đông Anh chơi. Tối đó, khi cùng vợ con đi dạo ở đầu ngõ gần nhà chị này, Hưng bị hai người nói trên đang trong men say tới gây sự. Hưng nhịn, nhưng hai người đó không chịu rời đi. Hai bên sau đó xô xát. Vợ Hưng thấy hai người đàn ông đánh chồng chạy tới can ngăn. Song hai người này đánh cả chị và cháu bé. Thấy vậy, Hưng rút dao bấm mang sẵn trong túi đầm hai nạn nhân liên tiếp khiến họ tử vong.”  Có thể thấy, việc hai người nạn nhân gây sự và tấn công gia đình anh Hưng có mức độ nguy hiểm không quá cao, bởi họ không sử dụng vũ khí và cũng không có khả năng gây thương tích cao, do đó việc anh Hưng sử dụng dao là hung khí nguy hiểm đâm chết hai người này không phù hợp với mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại, như vậy đây không phải phòng vệ chính đáng. 

Hành vi xâm phạm phải là hành vi vi phạm pháp luật. Trong trường hợp hành vi xâm phạm được phép bởi pháp luật, người bị xâm phạm không có quyền chống trả để phòng vệ.

Ví dụ: “Khoảng 23h30 ngày 8/3, tổ C1 Cảnh sát 911 Đà Nẵng tuần tra trên đường Nguyễn Lương Bằng (quận Liên Chiểu), phát hiện khoảng 10 thanh niên đi 5 xe máy mang theo hung khí. Thấy cảnh sát, cả nhóm bỏ chạy. Đại uý Phòng Anh Đại Phúc, Tổ trưởng C1, cùng thượng uý Nguyễn Hoàng Tùng dùng môtô chuyên dụng truy đuổi theo Vũ Minh Duy (trú quận Cẩm Lệ) và Hồ Hữu Ngọc Lý (cùng 18 tuổi, trú quận Ngũ Hành Sơn) đang chở nhau trên chiếc xe máy che kín | biển số. Đại uý Phúc nổ hai phát súng chỉ thiên trấn áp nhưng Duy và Lý không chấp hành, tiếp tục phóng xe về hướng trung tâm thành phố. Đến khu vực phường Hoà Minh (quận Liên Chiểu), khi bị cảnh sát áp sát, người ngồi sau vung dao phóng lợn tự chế để chống cự. Đại uý Phúc tiếp tục nổ hai phát súng. Cuộc truy đuổi diễn ra qua nhiều tuyến đường ở trung tâm Đà Nẵng. Khi đi qua cầu sông Hàn, người ngồi sau xe đã lao dao phóng lợn về phía cảnh sát Phúc và Tùng.” Hành vi của Duy và Lý tuy nhằm mục đích chống trả lại một hành vi xâm hại nhưng hành vi xâm hại này lại được pháp luật cho phép, do đó, việc tấn công của Duy và Lý không phải phòng vệ chính đáng. 

Hành vi trái pháp luật, đặc biệt là hành vi phạm tội và các hành vi vi phạm quy định của pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau như Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Dân sự, Luật Hành chính, Luật Kinh tế và các văn bản pháp luật khác, đều được xem xét khi xác định mức độ phòng vệ chính đáng trong trường hợp xâm phạm.

Trong trường hợp phòng vệ chính đáng, quan trọng là phải xét đến mối quan hệ với hành vi chống trả, không chỉ dựa vào việc xác định liệu có hành vi phạm tội nào diễn ra hay không. Người có hành vi chống trả gây tử vong hoặc thương tích cho người phạm tội đều được coi là phòng vệ chính đáng. Ngược lại, đôi khi có những hành vi xâm phạm chưa đủ điều kiện để coi là phạm tội, nhưng vì nó gây nguy hiểm nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức, hoặc công dân nên hành vi chống trả vẫn được xem là phòng vệ chính đáng. Do đó, khi đánh giá hành vi của người xâm phạm lợi ích cần bảo vệ, không chỉ dựa vào tính chất nguy hiểm của hành vi mà còn phải cân nhắc đến lợi ích đang bị đe dọa, đồng thời liên quan đến hành vi chống trả để xác định xem có phải là phòng vệ chính đáng hay không.

Pháp luật ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, thường không coi hành vi tấn công của người mắc bệnh tâm thần là hành vi trái pháp luật. Điều này là do những người mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi của họ đối với xã hội. Tuy nhiên, nếu một người bị tấn công bởi người mắc bệnh tâm thần, họ vẫn được quyền chống trả để tự vệ. Trong trường hợp có khả năng tránh xa mà không cần phải chống trả, việc này sẽ không được xem là hành vi phòng vệ. Ngược lại, khi bị tấn công bởi người say rượu, hành vi tự vệ được coi là hành vi phòng vệ, vì người say rượu, nếu làm tổn thương các lợi ích cần bảo vệ, vẫn bị xem là có hành vi trái pháp luật.

Hai hành vi phòng vệ chính đáng phải gây thiệt hại cho chính người đang có hành vi tấn công – nơi phát sinh nguồn nguy hiểm để bảo vệ những lợi ích hợp pháp.

Điều này bắt nguồn từ động cơ của hành vi phòng vệ, mục tiêu là ngăn chặn các hành vi nguy hiểm đối với xã hội. Do đó, cần tập trung vào nguồn gốc của nguy hiểm để ngăn chặn sự xuất hiện của hành vi nguy hiểm và hậu quả tương ứng. Điều này đảm bảo rằng hành vi phạm tội sẽ không xảy ra hoặc ít nhất được hạn chế, và đồng thời bảo vệ lợi ích tốt nhất của Nhà nước, các mối quan hệ xã hội và cả người phòng vệ lẫn người có hành vi xâm phạm.

Trong trường hợp thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra có thể bao gồm mất mát về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, hoặc các lợi ích xã hội khác, thì hành vi phòng vệ chỉ gây thiệt hại đối với tính mạng hoặc sức khoẻ của người có hành vi xâm phạm.

Nếu người phòng vệ không gây thiệt hại cho người có hành vi xâm phạm mà lại gây thiệt hại cho người khác, thường là người thân của người có hành vi xâm phạm, thì hành vi đó không được coi là hành vi phòng vệ.

Trong trường hợp người phòng vệ không gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức khoẻ cho người có hành vi xâm phạm, mà lại gây thiệt hại khác, thì hành vi đó cũng không được coi là hành vi phòng vệ.

Cũng không coi là phòng vệ chính đáng trong tình huống người có hành vi xâm phạm gây thiệt hại đến tài sản của người khác, và sau đó người khác cũng gây thiệt hại tài sản trở lại cho người có hành vi xâm phạm.

Ba hành vi phòng vệ chỉ được coi là chính đáng, khi hành vi chống trả được coi là cần thiết

Đây là một trong những tình huống khó xác định nhất khi đánh giá xem một hành vi có thể coi là tự vệ chính đáng hay không. Ranh giới giữa tự vệ chính đáng và hành vi phạm tội thường rất mong manh, dựa nhiều vào tình cảm và quyết tâm của người thực hiện hành vi đó. Tuy nhiên, thông qua nhiều nghiên cứu, có thể đưa ra một số lý luận xác định khi nào hành vi chống trả được coi là cần thiết:

Tính cần thiết của hành vi tự vệ không được định lượng một cách tuyến tính, chẳng hạn như việc quy định rằng nếu bên tấn công tạo ra tổn thất như thế nào thì bên tự vệ chỉ được phản công mức độ tương đương. Ví dụ, nếu A tát B hai cái, thì B không nhất thiết phải tát lại A hai cái, hoặc nếu A gây thương tích cho B 13%, thì B không nhất thiết phải gây thương tích cho A cũng 13%. Trong một số trường hợp cụ thể, người thực hiện hành vi xâm phạm có thể chỉ đe dọa gây thiệt hại ngay tức khắc cho người tự vệ hoặc người khác, trong khi người tự vệ có thể đang đối diện với nguy cơ đe dọa đến tính mạng và sức khỏe, điều này cũng được coi là cần thiết.

Cần thiết không giống như tương xứng, vì tương xứng là một đại lượng dùng để chỉ sự cân bằng giữa hai sự vật hoặc hiện tượng khác nhau. Tương xứng thường đề cập đến sự cân bằng, nhưng trong ngữ cảnh của tự vệ chính đáng, không rõ sự tương xứng giữa hành vi xâm phạm và hành vi tự vệ là gì, và điều này trở nên mơ hồ trong thực tế. Trong khi đó, nhiều trường hợp rõ ràng thể hiện rằng hành vi tự vệ không tương xứng với hành vi xâm phạm vẫn có thể được xem là tự vệ chính đáng. Vì vậy, việc thay thế thuật ngữ "tương xứng" bằng "cần thiết" như trong các Bộ luật hình sự năm 1999 và 2015 là hoàn toàn chính xác và có lý cả về lý luận và trong thực tế xét xử.

Cần thiết là sự thể hiện tính không thể không chống trả, không thể bỏ qua trước một hành vi xâm phạm đối với lợi ích cộng đồng. Khi đã xác định rằng hành vi chống trả là cần thiết và không thể tránh khỏi, thiệt hại gây ra cho người thực hiện hành vi xâm phạm, dù lớn hơn so với thiệt hại mà người đó tạo ra cho người tự vệ, vẫn được coi là tự vệ chính đáng.

Để xác định tính cần thiết của sự chống trả, cần dựa trên bản chất của các lợi ích bị xâm phạm, đặc tính của hành vi xâm phạm, và các mối quan hệ khác nhau giữa hành vi xâm phạm và hành vi tự vệ.

Mức độ mạnh mẽ của hành vi chống trả cần phải tương ứng với mức độ quan trọng của lợi ích bị xâm phạm. Đặc tính và cường độ của hành vi xâm phạm sẽ quyết định mức độ quyết liệt của hành vi chống trả. Trong quá trình đánh giá hành vi, việc xác định liệu đó có phải là một hành vi chống trả cần thiết trong bối cảnh hành vi phạm tội hay không đòi hỏi sự xem xét các yếu tố khác nhau, bao gồm mối quan hệ lực lượng giữa bên xâm phạm và bên tự vệ, cũng như thời gian và không gian diễn ra sự kiện.

Ví dụ cụ thể là sự việc xảy ra vào khoảng 11 giờ ngày 29/4/2017, tại một quán Karaoke ở huyện Y, Hòa Bình. Trong lúc các nhóm đang hát karaoke, một cuộc va chạm xảy ra giữa hai nhóm, dẫn đến một loạt các hành vi xâm phạm và tự vệ. Mặc dù hành vi của người tự vệ, trong trường hợp này là Bùi Văn A, có vẻ không tương xứng với sự tấn công của nhóm khác, nhưng qua việc xem xét mối quan hệ lực lượng, không gian, và thời gian diễn ra sự kiện, có thể xác định rằng hành vi của A có thể được coi là một hành vi chống trả chính đáng.

Cuộc đối thoại giữa A và người đại diện của nhóm khác, cũng như việc bất đồng trong quá trình thanh toán, tạo ra một tình huống căng thẳng. Khi A bị tấn công liên tục từ đa phía, anh ta đã sử dụng một con dao để tự vệ, nhằm ngăn chặn sự tấn công và bảo vệ bản thân. Dù hành vi của A có thể không tương xứng, nhưng với bối cảnh căng thẳng và mức độ nguy hiểm tăng cao, hành vi chống trả của A có thể được coi là cần thiết để bảo vệ bản thân khỏi nguy cơ nguy hiểm.

Do đó, trong trường hợp này, việc đánh giá tính chất cần thiết của hành vi chống trả không chỉ dựa trên tính chất và mức độ của hành vi xâm phạm mà còn cần xem xét các yếu tố môi trường và quy định về lực lượng để đưa ra quyết định xác đáng về tính chính đáng của hành vi chống trả.

Phòng vệ chính đáng không chỉ là biện pháp đối phó với đe doạ và tấn công trái pháp luật mà còn là sự thể hiện tích cực của việc tự bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bản thân hoặc người khác. Đây là quyền của con người, không chỉ là nghĩa vụ, do đó, không đặt ra yêu cầu rằng phương tiện và phương pháp của người phòng vệ phải giống như người tấn công.

Trong quá trình đánh giá hành vi chống trả có cần thiết hay không, cần xem xét toàn bộ tình tiết của vụ án, bao gồm cả diễn biến của hành vi. Điều đặc biệt cần quan tâm là tâm lý và thái độ của người tự vệ khi sự kiện xảy ra, đặc biệt là khi họ không có đủ thời gian để bình tĩnh và lựa chọn phương tiện chống trả một cách chính xác, đặc biệt trong trường hợp bất ngờ.

Phòng vệ chính đáng không chỉ hạn chế trong việc đối phó với tấn công vượt quá giới hạn, mà còn bao gồm cả việc đối phó với tình huống mà người phòng vệ tưởng nhầm là có mối đe dọa đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bản thân hoặc người khác, dẫn đến hậu quả là gây tổn thất đến tính mạng và sức khỏe của người đó. Cụ thể, phòng vệ tưởng tượng là khi một người tưởng lầm rằng người khác đang tiến hành hành vi xâm phạm đe dọa đến xã hội.

Người có hành vi phòng vệ tưởng tượng chỉ được xem xét là không có tội lỗi khi có lý do cho rằng bất kỳ người nào có ý thức bình thường đều sẽ tin rằng có một đe dọa thực sự và họ tin rằng họ không bị nhầm lẫn. Nếu sự lầm tưởng không có cơ sở và trong hoàn cảnh cụ thể đó, mọi người không thể lầm tưởng, người có hành vi xâm phạm phải chịu trách nhiệm hình sự.

Mặc dù pháp luật Việt Nam không công nhận phòng vệ trước (phòng vệ từ xa), tức là việc ngăn chặn trước khi bị tấn công, nhưng trong thực tế xét xử, nếu hành vi này gây tổn thất cho người đúng, người phạm tội vẫn có thể nhận được sự giảm nhẹ đáng kể về trách nhiệm hình sự. Một ví dụ là:

Gia đình Trần Văn N thường xuyên bị mất trộm gà, N đã nhiều đêm thức trắng để phục bắt người trộm nhưng không được, N bèn lấy một đoạn giây thép buộc vào cánh cửa chồng gà và cho dòng điện 220 Vol chay qua. Để bảo đảm an toàn cho những người trong gia đình mình, N dặn mọi người phải cẩn thận, trước khi đi ngủ mới được đấu điện vào và sáng thức dậy phải rút điện ra. đến đêm thứ 9 thì Bùi Văn T vào trộm gà và bị điện giật chết, trên tay T còn cầm một bao tải trong đựng 4 con gà. Mặc dù N bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS, nhưng Toà án chỉ phạt N 3 năm tù (dưới mức | thấp nhất của khung hình phạt) nhưng vẫn được nhân dân đồng tình, thậm chí còn có ý kiến cho rằng không nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với N vì người bị chết là “đáng đời”, ai bảo đi ăn trộm. 

Ở đây xuất hiện một sự mâu thuẫn giữa ý thức pháp luật và hành vi đe dọa đến an ninh xã hội, tương tự như trường hợp giết người trộm cắp khi bị bắt vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mặc dù vậy, những nhà lập pháp cũng cần xem xét đến yếu tố truyền thống, văn hóa, tâm lý của người Việt Nam trong trường hợp "phòng vệ trước". Có một số quốc gia, kể cả những quốc gia phát triển, vẫn quy định rằng trong một số tình huống, hành vi phòng vệ trước không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu Việt Nam không công nhận hành vi này, có thể xem xét việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với những trường hợp tội phạm do phòng vệ trước.

Phòng vệ trước có thể coi là trường hợp phòng vệ quá sớm, tức là chưa có hành vi tấn công đã có hành vi phòng vệ. Mặc dù phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm, nhưng nếu hành vi chống trả rõ ràng vượt quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm đối với xã hội, thì được xem là vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng. Người có hành vi vượt quá giới hạn phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự đối với họ thường được giảm nhẹ đáng kể so với trường hợp không vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng.

Bộ Luật Hình sự quy định hai trường hợp tội phạm do vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng, đó là giết người vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 126) và cố ý gây thương tích vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 136). Cả hai trường hợp này được xem là cấu thành giảm nhẹ đặc biệt, nhưng cần phải xác định rõ ràng trường hợp nào được coi là dấu hiệu định tội và trường hợp nào chỉ là tình tiết giảm nhẹ định tại Điều 51 BLHS. Việc quy định về tình tiết phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được coi là một vấn đề phức tạp và có thể cần sự hướng dẫn từ các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương.

Các điều kiện về phòng vệ chính đáng và ví dụ về phòng vệ chính đáng

Các điều kiện về phòng vệ chính đáng và ví dụ về phòng vệ chính đáng

Tổng kết, để một hành vi được xem là phòng vệ chính đáng, cần phải đáp ứng các điều kiện sau:

  1. Cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng: Hành vi phòng vệ chính đáng chỉ có thể được xác định khi có hành vi trái pháp luật đang xâm phạm đến các lợi ích hợp pháp.

  2. Gây thiệt hại cho người tấn công: Hành vi phòng vệ chính đáng phải tạo ra tác động gây thiệt hại cho chính người thực hiện hành vi tấn công, tại nơi mà nguy cơ nguy hiểm đang xuất phát để bảo vệ những lợi ích hợp pháp.

  3. Sự cần thiết của hành vi chống trả: Hành vi phòng vệ chỉ có thể được xem là chính đáng khi hành vi chống trả được coi là cần thiết để đối mặt với tình huống đang diễn ra.

Câu hỏi thường gặp

Câu hỏi: Theo Điều 22 của Bộ luật Hình sự năm 2015, phòng vệ chính đáng được định nghĩa như thế nào?

Trả lời: Theo Điều 22 của Bộ luật Hình sự năm 2015, phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. Hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.

Câu hỏi: Phải đáp ứng những điều kiện gì để hành vi được coi là phòng vệ chính đáng theo quy định của Luật Hình sự?

Trả lời: Hành vi chỉ được coi là phòng vệ chính đáng nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:

  1. Cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng: Hành vi xâm phạm phải là hành vi trái pháp luật và có mức độ nguy hiểm đáng kể đối với xã hội.

  2. Nội dung của Phòng vệ chính đáng:

    • Mục đích bảo vệ: Hành vi phòng vệ phải nhằm bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của bản thân, của người khác, hoặc lợi ích của nhà nước, cơ quan, tổ chức.
    • Nhằm vào người tấn công: Sự chống trả phải nhằm vào chính người đang có hành vi nguy hiểm, không được nhằm vào người khác để tránh lợi dụng việc phòng vệ chính đáng.
    • Cần thiết: Hành vi phòng vệ phải được xem xét về tính cần thiết, dựa trên tính chất của lợi ích bị xâm phạm, tính chất của hành vi xâm phạm và mối tương quan giữa chúng.
  3. Không tự ý xử lý mọi trường hợp: Phòng vệ chính đáng không có nghĩa là được tự ý xử lý mọi trường hợp mà còn có những giới hạn nhất định, và hành vi chỉ được coi là phòng vệ chính đáng khi đáp ứng các điều kiện chứng minh sự phòng vệ là cần thiết, phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.

Câu hỏi: Tự vệ vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng gây thương tích 22%, có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Trả lời: Không, việc chống trả dẫn đến làm người khác bị thương tích với tỷ lệ tổn thương là 22% không đủ căn cứ để bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 136 của Văn bản hợp nhất 01/VBHN-VPQH năm 2017. Các hành vi phạm tội liên quan đến tỷ lệ tổn thương cơ thể chỉ áp dụng khi tỷ lệ tổn thương từ 31% đến 60%.

Câu hỏi: Làm chết người do phòng vệ, có phải là vượt quá mức phòng vệ chính đáng? Có chịu hình phạt hình sự không?

Trả lời: Tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm, làm chết người do phòng vệ có thể được xem xét là phòng vệ chính đáng nếu được thực hiện cần thiết và phù hợp. Tuy nhiên, nếu việc phòng vệ dẫn đến cái chết và được xem là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với các khung hình phạt tương ứng, như tội Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 126) hoặc tội Cố ý gây thương tích (Điều 136).

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo