Trong cuộc sống, các vấn đề liên quan đến cho vay cầm cố và các quy định có liên quan đều là vấn đề rất được quan tâm. Bởi lẽ, việc cho vay cầm cố sẽ mang đến những tác động cho mọi người, ảnh hưởng đến cá nhân và nhiều chủ thể khác trong xã hội. Vậy, vay cầm đồ là như thế nào? Hãy cùng theo dõi bài viết bên dưới của ACC để được giải đáp thắc mắc và biết thêm thông tin chi tiết về vay cầm đồ.
1.Cho vay cầm đồ là gì?
Khi tìm hiểu về vay cầm đồ, chủ thể cần nắm được khái quát về cho vay cầm đồ là gì
Dịch vụ cầm đồ là một hoạt động cho vay thuộc 227 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật Đầu tư năm 2020 (khoản 2 Điều 7 Phụ lục số IV ban hành kèm theo Luật đầu tư năm 2020). Dịch vụ cầm đồ được định nghĩa là “dịch vụ cho vay tiền mà người vay tiền phải có tài sản hợp pháp mang đến cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ để cầm cố”. Khoản 4 Điều 3 về “Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự và phạm vi quản lý”, Nghị định số96/2016/NĐ-CP
2.Khái quát lược sử về cho vay cầm đồ
Khái quát lược sử về cho vay cầm đồ như sau:
Dịch vụ cầm đồ đã được đề cập rất sớm trong hệ thống pháp luật Việt Nam sau năm 1945, tại Luật Thuế trực thu năm 1949.
Năm 1993, pháp luật quy định Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý về hoạt động cầm đồ vàng.
Vào những năm 1994 - 1999, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết định, rồi cùng với Bộ Thương mại ban hành Thông tư liên tịch quản lý dịch vụ cầm đồ, sau đó là Thông tư quản lý của Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương).
Vào năm 1995 và 2005, hai Bộ luật Dân sự đã từng quy định, việc cầm cố tài sản tại cửa hàng cầm đồ thực hiện theo các quy định về cầm cố tài sản.
Năm 1997, Luật Các tổ chức tín dụng quy định: “tổ chức tín dụng được cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật”.
Năm 2006, Ngân hàng Nhà nước đã sửa từ “cầm đồ” thành “cầm cố” tại tên và nội dung hạch toán của Tài khoản 994 - Tài sản thế chấp, cầm đồ của khách hàng. Có thể nói, các tổ chức tín dụng đã chấm dứt dịch vụ cầm đồ kể từ thời điểm này, mặc dù quy định về dịch vụ cầm đồ của tổ chức tín dụng nêu trên đến năm 2011 mối hết hiệu lực.
3.Quy định pháp luật về cho vay cầm đồ
Việc tìm hiểu khái quát quy định pháp luật về cho vay cầm đồ cũng là điều cần thiết khi nghiên cứu vay cầm đồ
Pháp luật hiện hành quy định “kinh doanh dịch vụ cầm đồ, gồm: kinh doanh dịch vụ cho vay tiền mà người vay tiền phải có tài sản hợp pháp mang đến cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ để cầm cố’’. Và cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ phải có trách nhiệm “lập hợp đồng cầm cố tài sản theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, cho vay cầm đồ là hoạt động cho vay hoàn toàn dựa trên cơ sở cầm cố tài sản, tức là bên vay phải có động sản và phải giao cho bên cho vay. Bản chất của dịch vụ cầm đồ là cho vay hoàn toàn dựa vào trị giá tài sản cầm cố. Nếu như bên vay không trả được nợ, thì bên cho vay được quyền xử lý tài sản để thu hồi nỢ, mà không dựa vào uy tín, vào tài sản cũng như từ các nguồn thu nợ khác.
Dịch vụ cầm đồ hoạt động dưới các hình thức doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và hộ kinh doanh sau khi được cơ quan Công an cấp huyện, quận cấp “Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự và quản lý các cơ sở kinh doanh” về “kinh doanh dịch vụ cầm đồ”
Hoạt động dịch vụ cầm đồ không được dựa trên cơ sở bảo lãnh, tín chấp, không có tài sản bảo đảm hoặc là thế chấp tài sản, kể cả là bằng động sản hoặc bất động sản. Việc cho vay cầm đồ cũng không được phép dựa trên cơ sở bảo đảm bằng chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân, bằng tốt nghiệp đại học, giấy phép lái xe, sổ bảo hiểm xã hội, thẻ sinh viên, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, .., vì đó không phải là những tài sản có thể dùng để cầm cố theo quy định của Bộ luật Dân sự nám 2015. (Điều 105, Điều 309 Bộ luật dân sự năm 2015)
Dịch vụ cầm đồ không phải là một hoạt động tín dụng theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng. Việc cho vay vượt quá phạm vi cầm đồ, không dựa vào tài sản cầm cố, là vi phạm quy định “nghiêm cấm cá nhân, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động ngân hàng trừ giao dịch ký quỹ, giao dịch mua, bán lại chứng khoán của công ty chứng khoán”.
Việc cho vay vượt quá phạm vi cầm đồ, không dựa hoàn toàn vào tài sản cầm cố, là hành vi hoạt động ngân hàng, vi phạm quy định “nghiêm cấm cá nhân, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động ngân hàng”.
Giấy phép đã cấp cho các ngân hàng trước kia có dịch vụ cầm đồ, nhưng Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) hiện hành đã bỏ quy định về hoạt động cầm đồ. Vì vậy các ngân hàng không được cấp phép thực hiện dịch vụ cầm đồ, mà chỉ được phép cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố. (khoản 2 Điều 8 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi)
Năm 1999, lãi suất cho vay cầm đồ đã từng được quy định cao gấp hơn 3 lần nếu tính theo tháng và hơn 9 lần nếu tính theo ngày so với lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng (trường hợp cho vay dưới 10 ngày, lãi suất không quá 0,3%/ngày, tức 109,5%/năm, từ 10 ngày trở lên không quá 3%/tháng, tức 36%/năm)[2]. Tuy nhiên, đến nay, cho vay cầm đồ cũng phải thực hiện theo giới hạn lãi suất chung, trong đó lãi suất trong hạn không quá 20%/năm và lãi suất quá hạn không quá 30%/năm. Trong khi đó, lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng thì nhìn chung là không bị giới hạn.
Những vấn đề pháp lý có liên quan đến vay cầm đồ cũng như các thông tin cần thiết khác đã được trình bày cụ thể và chi tiết trong bài viết. Khi nắm được thông tin về vay cầm đồ sẽ giúp chủ thể hiểu được vấn đề một cách chính xác và rõ rang hơn.
Nếu quý khách hàng vẫn còn thắc mắc liên quan đến vay cầm đồ cũng như các vấn đề có liên quan, hãy liên hệ ngay với ACC.
Công ty luật ACC chuyên cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp lý đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong thời gian sớm nhất có thể.
Nội dung bài viết:
Bình luận