Hiến pháp là một hệ thống cao nhất của pháp luật quy định những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập thủ tục, quyền hạn, trách nhiệm của một chính quyền. Nhiều hiến pháp cũng bảo đảm các quyền nhất định của nhân dân.

1. Sự ra đời của Hiến pháp Việt Nam 2013
Năm 2013, Việt Nam đứng trước ngưỡng cửa mới của sự phát triển. Đánh dấu bằng việc Đại hội XI đã thông qua Cương lĩnh 2011, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2020, Hiến pháp 1992 cần phải sửa đổi để phù hợp với thời đại, đáp ứng nhu cầu cho sự đổi mới. Nối tiếp con đường xã hội chủ nghĩa của bản Hiến pháp hiện hành, ba mươi thành viên của Uỷ ban soạn thảo sửa đổi Hiến pháp đã nhìn nhận một cách đầy đủ và điều chỉnh những khó khăn, bất cập mà Việt Nam đã trải qua, bên cạnh đó, tiếp thu một cách có chọn lọc những tư tưởng tiến bộ trên thế giới. Nhìn vào bản Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2013, chúng ta có thể hy vọng, tin tưởng rằng khi đi vào cuộc sống, bản Hiến pháp sẽ đem lại những ảnh hưởng tích cực cho đất nước, bởi những điểm mới mẻ.
2. Những ưu điểm của Hiến pháp Việt Nam 2013
2.1 Lần đầu tiên Hiến pháp viết hoa hai chữ “Nhân dân” nhằm khẳng định bản chất nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
Đây là có thể xem như một trong những thay đổi đáng kể trong lần sửa đổi Hiến pháp này, thể hiện một lối tư duy mới, cách nhìn mới của các nhà lãnh đạo đối với vai trò của Nhân dân. Nhìn vào dòng chảy lịch sử, trước Cách mạng tháng Tám, từ “Nhân dân” chưa xuất hiện với nghĩa như ngày nay mà chỉ có những khái niệm “bá tánh”, “dân chúng”, “trăm họ”… với nghĩa hạn hẹp hơn. Từ “Nhân dân” gắn liền với Cách mạng, với cuộc giải phóng dân tộc, với việc xây dựng nền Cộng hoà Dân chủ của Việt Nam. Từ khi xuất hiện, hai chữ “Nhân dân” được sử dụng nhiều lần trong các văn bản chính thống của Đảng, Nhà nước, trong các tác phẩm nghệ thuật và ngay cả trong cuộc sống hàng ngày.
Tinh thần đề cao Nhân dân trong bản Hiến pháp mới lần này đã kế thừa truyền thống của dân tộc, lịch sử đã cho thấy, không một chế độ nào, không một thể chế nào có thể tồn tại và phát triển nếu xa rời Nhân dân. Rõ ràng, hai chữ “Nhân dân” được viết hoa hàm chứa nội dung sâu sắc về mặt chính trị – xã hội chứ không đơn thuần chỉ là chuyện ngôn từ, đó là một nhận thức, tình cảm, trách nhiệm mới đối với Nhân dân, như Hồ Chí Minh đã từng dặn dò, nhắc nhở mỗi chúng ta từ buổi đầu lập quốc: “… Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.
2.2 Lý thuyết phân quyền được đưa vào trong việc quản lý quyền lực nhà nước thể hiện rõ chức năng cơ bản của Hiến pháp – giới hạn quyền lực nhà nước
Một bản Hiến pháp đúng, chuẩn là mong muốn của chúng ta khi lập hiến hay trong những lần sửa đổi, bổ sung. Muốn thực hiện được điều đó, nhất định cần phải có “chủ nghĩa Hiến pháp” – những lý luận cần thiết khi thiết lập và là cơ sở để sửa đổi Hiến pháp đúng nghĩa. Trọng tâm của “chủ nghĩa Hiến pháp” là giới hạn quyền lực nhà nước, chống lại sự độc quyền quyền lực, từ đó tạo nền tảng bảo vệ quyền lợi đáng có của dân. Tuy nhiên, nhìn vào lịch sử lập hiến, lập pháp của nước ta, những yêu cầu này chưa được nhìn nhận một cách đúng mực, chưa được thực hiện một cách đầy đủ, chưa có chủ trương cụ thể.
2.3 Quyền con người được nhìn nhận với một vai trò cao hơn, xác định lại mối quan hệ giữa nhà nước với con người
Một trong những bước tiến quan trọng và rõ nét nhất của Hiến pháp sửa đổi là đề cao nhân quyền như tổng hoà quyền con người và quyền công dân; đồng thời xác lập trách nhiệm đảm bảo những quyền đó được thực hiện trên thực tế của Nhà nước. Theo Hiến pháp sửa đổi, khái niệm quyền con người đã được thêm vào cùng với quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đưa lên Chương II (thay vì Chương V như trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi 2001). Sự thay đổi này có thể nói là không mới nhưng là một sự cần thiết, chương về quyền con người, quyền công dân quay về với vị trí cũ như đã từng được hiến định trong Hiến pháp năm 1946. Chương II, sau chương về chính thể cũng là chương về quyền con người trong Hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới, theo đúng ý nghĩa cơ bản của Hiến pháp cổ điển: giới hạn quyền lực nhà nước (Chương I trong Hiến pháp về chính thể, quy định cách tổ chức nhà nước) và bảo vệ quyền con người (Chương II trong Hiến pháp về quyền).
Hiến pháp là luật gốc, là đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia, mang tính tối cao, chính vì thế loại văn bản này đồng nghĩa với việc sửa đổi không hề đơn giản. Càng có sức sống lâu bền thì hiệu lực của Hiến pháp lại càng có sức mạnh. Tuy nhiên, cuộc sống luôn thay đổi một cách khách quan, sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhất định kéo theo sự đổi thay về kiến trúc thượng tầng, Hiến pháp cũng cần phải thay đổi để phù hợp với sự vận động của xã hội. Việc sửa đổi có thể là cơ bản hoặc từng bước đối với những quy định mất hiệu lực pháp lý, là lực cản đối với sự phát triển của quốc gia, không thể hiện quy luật khách quan của chủ nghĩa Hiến pháp.
3. Những hạn chế của Hiến pháp Việt Nam 2013
- Tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật
- Tính ổn định của pháp luật thấp, thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung
- Chưa thực hiện đúng các yêu cầu về xây dựng, phân tích chính sách trong quy trình xây dựng pháp luật
- Hạn chế về thực hiện đánh giá tác động của chính sách, pháp luật, lấy ý kiến, phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
- Chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật chưa bảo đảm, chưa phù hợp thực tiễn, tính khả thi thấp, còn tình trạng ban hành văn bản pháp luật sai về nội dung và thủ tục, hình thức
- Hạn chế về năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức xây dựng pháp luật, chế độ trách nhiệm, chế tài xử lý vi phạm chưa được quy định đầy đủ, hợp lý
4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục hạn chế, bất cập trong xây dựng pháp luật, bảo đảm chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật
- Xác định đầy đủ, rõ ràng, hợp lý hơn về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, loại bỏ sự chồng chéo, bảo đảm thực hiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng pháp luật Đây là giải pháp rất căn bản để góp phần khắc phục những hạn chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo chất lượng các văn bản pháp luật. Mặc dù quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật là điều kiện quan trọng, song nếu chỉ dừng lại ở quy trình, thủ tục thì vẫn chưa có thể khắc phục hoàn toàn được những hạn chế trong đó có sự chồng chéo, xung đột giữa các văn bản pháp luật như lâu nay. Hiện tại, cơ chế phân công, phối hợp về xây dựng pháp luật của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đang còn nhiều vấn đề bất hợp lý, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật.
- Cách thức xây dựng - làm luật ở nước ta không do cơ quan chuyên trách, độc lập, đại biểu dân cử hoặc các ủy ban của Quốc hội chủ trì soạn thảo mà thường được giao cho cơ quan thuộc Chính phủ hoặc cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực trực tiếp xây dựng. Một khi các cá nhân, cơ quan công quyền đã có thẩm quyền xây dựng pháp luật, có điều kiện, lại kèm theo chế độ trách nhiệm phải hoàn thành nhiệm vụ xây dựng pháp luật theo tháng, quý, năm, nhiệm kỳ... và theo cả chỉ tiêu thi đua... nên rất dễ dàng cài cắm lợi ích bộ, ngành, nhóm..., và hiện tượng “đẽo cày giữa đường” khi làm luật, thực ra ở đây chủ yếu là liên quan đến lợi ích(7).
- Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải gắn với việc rà soát, đánh giá, xem xét, dự kiến bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan nhằm kịp thời loại bỏ những quy định lạc hậu, mâu thuẫn, chồng chéo, không đúng thẩm quyền, không minh bạch, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, thực hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động của chính sách, pháp luật.
- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, quy định chế độ trách nhiệm, chế tài xử lý vi phạm đối với cá cá nhân, tổ chức trong xây dựng pháp luật
- Cần quy định chặt chẽ hơn về chế độ trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình về công tác xây dựng pháp luật. Quy định các chế tài pháp luật hợp lý, nghiêm khắc hơn đối với các chủ thể ban hành văn bản pháp luật sai trái, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích của các cá nhân, tổ chức. Đối tượng để xem xét trách nhiệm bao gồm tập thể cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản; cá nhân người đứng đầu cơ quan; cán bộ, công chức trong quá trình tham mưu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, thông qua văn bản có nội dung trái pháp luật(8).
- Cần tăng cường công tác kiểm tra, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, xử lý kịp thời các sai phạm theo hướng: Xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo; xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, cá nhân trong việc tham mưu xây dựng, ban hành văn bản trái pháp luật; nâng cao trách nhiệm, chất lượng văn bản, phân công hợp lý hơn, phối hợp chặt chẽ hơn trong quá trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, tránh tình trạng “giữa đường đổi vai”.
- Thực hiện nghiêm túc, có chất lượng việc lấy ý kiến góp ý, tham vấn, phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật
- Để bảo đảm chất lượng, hiệu lực pháp lý và hiệu quả xã hội của các chính sách, văn bản pháp luật cần làm nghiêm túc công đoạn tổ chức lấy ý kiến, sự tham vấn của các chuyên gia, các tổ chức pháp lý, xã hội, người dân và doanh nghiệp. Nhiệm vụ của các cơ quan chủ trì soạn thảo dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải chủ động lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động; rà soát, kịp thời phát hiện các quy định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, bất hợp lý, không phù hợp với tình hình thực tiễn và đề xuất hướng giải quyết.
- Cần đổi mới cách tổ chức, xử lý, sử dụng thông tin của việc lấy ý kiến góp ý, phản biện chính sách và pháp luật đảm bảo khách quan, thực chất hơn. Để góp phần bảo đảm chất lượng của các văn bản pháp luật, cần thu hút sự tham gia ý kiến của các chuyên gia, doanh nghiệp và người dân ngay từ khâu xây dựng chính sách chứ không chỉ góp ý vào các dự án, dự thảo văn bản pháp luật. Các cơ quan, đơn vị tăng cường công tác tham vấn ý kiến các đối tượng chịu sự tác động của văn bản.
- Tăng cường năng lực và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức tham gia xây dựng pháp luật, bảo đảm chất lượng của dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
- Thực hiện kiểm soát pháp luật - điều kiện quan trọng bảo đảm chất lượng, hiệu quả xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật
- Kiểm soát quyền lực nhà nước chỉ có ý nghĩa đầy đủ, hiệu lực, hiệu quả nhất khi bao quát cả việc kiểm soát hành vi và quyết định pháp luật - quyết định dưới dạng các văn bản pháp luật và các văn bản áp dụng pháp luật. Nếu xét riêng về phạm vi, tần suất tác động, số lượng các chủ thể chịu sự tác động thì có thể nói, sự tác động của các văn bản pháp luật rộng lớn hơn so với những hành vi pháp luật của các cá nhân, tổ chức.
Nội dung bài viết:
Bình luận