Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948 

Trong 2 năm 1947-1948, công việc soạn thảo Tuyên ngôn thế giới về quyền con người  (TN) được tiến hành khẩn trương và thận trọng, trong khuôn khổ chức năng, nhiệm vụ của ủy ban nhân quyền. Ngày 10-12-1948, Bản Tuyên ngôn đã hoàn thành, được Đại hội đồng LHQ thông qua bởi Nghị quyết 217A (III). Cho đến nay, Tuyên ngôn được xem là văn kiện chính trị đặc biệt, được tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, hệ tư tưởng, trình độ phát triển, bản sắc văn hóa thừa nhận là giá trị chung của nhân loại. Ngày 10 tháng 12 hằng năm được tôn vinh là Ngày nhân quyền thế giới, được các quốc gia kỷ niệm. Trong bài viết này, Luật ACC sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến tuyên ngôn nhân quyền quốc tế năm 1948. 

Pvep Thong Bao Ket Qua Cuoc Thi Tim Hieu Phap Luat 2018
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người

1. Tình trạng pháp lý. 

Số hiệu: Khong So Loại văn bản: Điều ước quốc tế
Nơi ban hành: *** Người ký: ***
Ngày ban hành: 10/12/1948 Ngày hiệu lực:
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Tình trạng: Đã biết

2. Tóm tắt tổng quát tuyên ngôn nhân quyền. 

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp. Bản Tuyên ngôn đã được dịch ra ít nhất khoảng 500 ngôn ngữ. Tuyên bố phát sinh trực tiếp từ những kinh nghiệm của Chiến tranh thế giới thứ hai và là tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên trên thế giới, trong đó liệt kê các quyền cơ bản mà mọi cá nhân, được hưởng, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn cảnh khác (điều 2). Nó bao gồm 30 điều đã được xây dựng trong các Thỏa ước quốc tế, thỏa ước nhân quyền khu vực, hiến pháp và luật pháp quốc gia. Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế bao gồm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, và Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị cùng hai Nghị định thư không bắt buộc I và II. Năm 1966, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua hai Công ước trên, qua đó hoàn thành cơ bản Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế.

Tuyên bố bao gồm 30 điều khoản khẳng định các quyền của một cá nhân, mặc dù bản thân không ràng buộc về mặt pháp lý, đã được xây dựng trong các điều ước quốc tế sau đó, chuyển giao kinh tế, các công cụ nhân quyền khu vực, hiến pháp quốc gia và các luật khác. Tuyên bố là bước đầu tiên trong quá trình xây dựng Dự luật Nhân quyền Quốc tế, được hoàn thành vào năm 1966 và có hiệu lực vào năm 1976, sau khi đủ số lượng quốc gia phê chuẩn chúng

3. Nội dung chi tiết bản tuyên ngôn nhân quyền 1948. 

TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN (1948)

LỜI MỞ ĐẦU

Xét rằng việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới,

Xét rằng việc coi thường và khinh miệt nhân quyền đã đưa tới những hành động dã man làm phẫn nộ lương tâm nhân loại, và việc đạt tới một thế giới trong đó mọi người được tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, được giải thoát khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, được tuyên xưng là nguyện vọng cao cả nhất của con người,

Xét rằng điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ pháp trị bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền,

Xét rằng điều cốt yếu là phải phát triển những tương quan hữu nghị giữa các quốc gia,

Xét rằng, trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, các dân tộc đã tái xác nhận niềm tin vào những nhân quyền căn bản, vào phẩm cách và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng nam nữ, cùng quyết tâm thúc đẩy tiến bộ xã hội và nâng cao mức sống trong một môi trường tự do hơn,

Xét rằng các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc để phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản,

Xét rằng một quan niệm chung về tự do và nhân quyền là điều tối quan trọng để thực hiện trọn vẹn cam kết ấy.

Vì vậy,

ĐẠI HỘI ĐỒNG LIÊN HIỆP QUỐC

Công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như một tiêu chuẩn thực hiện chung cho tất cả các dân tộc và quốc gia, sao cho mỗi cá nhân và đoàn thể xã hội luôn nhớ tới bản tuyên ngôn này, nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này bằng học vấn và giáo dục, và bằng những biện pháp lũy tiến trên bình diện quốc gia và quốc tế, bảo đảm sự thừa nhận và thực thi trên toàn cầu các quyền tự do này cho các dân tộc thuộc các quốc gia hội viên hay thuộc các lãnh thỗ bị giám hộ.

Điều 1: Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái.

Điều 2: Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác.

Ngoài ra không được phân biệt về quy chế chính trị, pháp lý hay quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ mà người đó trực thuộc, dù là nước độc lập, bị giám hộ, mất chủ quyền hay bị hạn chế chủ quyền.

Điều 3: Ai cũng có quyền được sống, tự do, và an toàn thân thể.

Điều 4: Không ai có thể bị bắt làm nô lệ hay nô dịch; chế độ nô lệ và sự mua bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị cấm chỉ

Điều 5: Không ai có thể bị tra tấn hay bị những hình phạt hoặc những đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp nhân phẩm.

Điều 6: Ai cũng có quyền được công nhận là con người trước pháp luật bất cứ tại đâu.

Điều 7: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Mọi người đều được bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi giục kỳ thị trái với Tuyên Ngôn này.

Điều 8: Ai cũng có quyền yêu cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại những hành động vi phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận.

Điều 9: Không ai có thể bị bắt giữ, giam cầm hay lưu đầy một cách độc đoán.

Điều 10: Ai cũng có quyền, trên căn bản hoàn toàn bình đẳng, được một toà án độc lập và vô tư xét xử một cách công khai và công bằng để phán xử về những quyền lợi và nghiã vụ của mình, hay về những tội trạng hình sự mà mình bị cáo buộc.

Điều 11:

1) Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ.

2) Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành; mà cũng không bị tuyên phạt một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian phạm pháp.

Điều 12: Không ai có thể bị xâm phạm một cách độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hay bị xúc phạm đến danh dự hay thanh danh. Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy.

Điều 13:

1) Ai cũng có quyền tự do đi lại và cư trú trong quản hạt quốc gia.

2) Ai cũng có quyền rời khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả quốc gia của mình, và có quyền hồi hương.

Điều 14:

1) Khi bị đàn áp, ai cũng có quyền tìm nơi tị nạn và được hưởng quyền tị nạn tại các quốc gia khác.

2) Quyền này không được viện dẫn trong trường hợp sự truy tố thực sự chỉ căn cứ vào những tội trạng không có tính cách chính trị hay vào những hành động trái với mục đích và tôn chỉ của Liên Hiệp Quốc.

Điều 15:

1) Ai cũng có quyền có quốc tịch.

2) Không ai có thể bị tước quốc tịch hay tước quyền thay đổi quốc tịch một cách độc đoán.

Điều 16:

1) Đến tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền kết hôn và lập gia đình mà không bị ngăn cấm vì lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Họ có quyền bình đẳng khi kết hôn, trong thời gian hôn thú cũng như khi ly hôn.

2) Hôn thú chỉ có giá trị nếu có sự thuận tình hoàn toàn tự do của những người kết hôn.

3) Gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và phải được xã hội và quốc gia bảo vệ.

Điều 17:

1) Ai cũng có quyền sở hữu, hoặc riêng tư hoặc hùn hiệp với người khác.

2) Không ai có thể bị tước đoạt tài sản một cách độc đoán.

Điều 18: Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.

Điều 19: Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.

Điều 20:

1) Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội có tính cách hoà bình.

2) Không ai bị bắt buộc phải gia nhập một hội đoàn.

Điều 21:

1) Ai cũng có quyền tham gia chính quyền của quốc gia mình, hoặc trực tiếp hoặc qua các đại biểu do mình tự do lựa chọn.

2) Ai cũng có quyền bình đẳng tham gia công vụ trong nước.

3) Ý nguyện của quốc dân phải được coi là căn bản của mọi quyền lực quốc gia; ý nguyện này phải được biểu lộ qua những cuộc tuyển cử có định kỳ và trung thực, theo phương thức phổ thông đầu phiếu kín, hay theo các thủ tục tuyển cử tự do tương tự.

Điều 22: Với tư cách là một thành viên của xã hội, ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội, cũng như có quyền đòi được hưởng những quyền kinh tế, xã hội và văn hoá cần thiết cho nhân phẩm và sự tự do phát huy cá tính của mình, nhờ những nỗ lực quốc gia, sự hợp tác quốc tế, và theo cách tổ chức cùng tài nguyên của quốc gia.

Điều 23:

1) Ai cũng có quyền được làm việc, được tự do lựa chọn việc làm, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi và được bảo vệ chống thất nghiệp.

2) Cùng làm việc ngang nhau, mọi người được trả lương ngang nhau, không phân biệt đối xử.

3) Người làm việc được trả lương tương xứng và công bằng, đủ để bảo đảm cho bản thân và gia đình một đời sống xứng đáng với nhân phẩm, và nếu cần, sẽ được bổ sung bằng những biện pháp bảo trợ xã hội khác.

4) Ai cũng có quyền thành lập nghiệp đoàn hay gia nhập nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.

Điều 24: Ai cũng có quyền nghỉ ngơi và giải trí, được hưởng sự hạn định hợp lý số giờ làm việc và những ngày nghĩ định kỳ có trả lương.

Điều 25:

1) Ai cũng có quyền được hưởng một mức sống khả quan về phương diện sức khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình kể cả thức ăn, quần áo, nhà ở, y tế và những dịch vụ cần thiết; ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, tật nguyền, góa bụa, già yếu, hay thiếu phương kế sinh nhai do những hoàn cảnh ngoài ý muốn.

2) Sản phụ và trẻ em được đặc biệt săn sóc và giúp đỡ. Tất cả các con, dầu là chính thức hay ngoại hôn, đều được hưởng bảo trợ xã hội như nhau.

Điều 26:

1) Ai cũng có quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí ít nhất ở cấp sơ đẳng và căn bản. Giáo dục sơ đẳng có tính cách cưỡng bách. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được phổ cập. Giáo dục cao đẳng phải được phổ cập cho mọi sinh viên trên căn bản bình đẳng, lấy thành tích làm tiêu chuẩn.

2) Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản; phải đề cao sự thông cảm, bao dung và hữu nghị giữa các quốc gia, các cộng đồng sắc tộc hay tôn giáo, đồng thời yểm trợ những hoạt động của Liên Hiệp Quốc trong việc duy trì hòa bình.

3) Cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn giáo dục cho các con.

Điều 27:

1) Ai cũng có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, thưởng ngoạn nghệ thuật, được hưởng các tiến bộ khoa học và lợi ích của những tiến bộ ấy.

2) Ai cũng được bảo vệ bởi những quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ những sản phẩm khoa học, văn học hay nghệ thuật của mình.

Điều 28: Ai cũng có quyền được hưởng một trật tự xã hội và trật tự quốc tế trong đó những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này có thể được thực hiện đầy đủ.

Điều 29:

1) Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ.

2) Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn.

3) Trong mọi trường hợp, những quyền tự do này không thể hành xử trái với những mục tiêu và tôn chỉ của Liên Hiệp Quốc.

Điều 30: Không một điều khoản nào trong Tuyên Ngôn này có thể giải thích để cho phép một quốc gia, một đoàn thể, hay một cá nhân nào được quyền hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu hủy những quyền tự do liệt kê trong Tuyên Ngôn này.

PHỤ ĐÍNH 1:

CÁC ĐIỀU KHOẢN NHÂN QUYỀN TRONG HIẾN CHƯƠNG LIÊN HIỆP QUỐC (1945)

Điều 1: Những mục tiêu của Liên Hiệp Quốc là:

  1. Duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
  2. Phát triển tương quan hữu nghị giữa các quốc gia đặt căn bản trên sự tôn trọng nguyên tắc bình đẳng quyền lợi và quyền dân tộc tự quyết, cùng thi hành mọi biện pháp thích nghi để củng cố hòa bình thế giới.
  3. Đạt tới sự hợp tác quốc tế nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá, hay nhân đạo, và phát huy, khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo.

Điều 55: Nhằm mục đích đạt được những điều kiện về ổn định và phúc lợi cần thiết cho việc thiết lập những tương quan hòa bình và hữu nghị giữa các quốc gia đặt căn bản trên sự bình đẳng quyền lợi và quyền dân tộc tự quyết, Liên Hiệp Quốc đề xướng thực thi:

  1. Một mức sống cao hơn, sự toàn dụng nhân công và tạo những điều kiện tiến bộ và phát triển về kinh tế xã hội
  2. Tìm kiếm những giải pháp cho những vấn đề kinh tế xã hội và văn hóa, thực thi sự hợp tác quốc tế về văn hóa và giáo dục, và
  3. Tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo.

Điều 56: Các Quốc Gia Hội Viên cam kết, bằng những hành động riêng rẽ hay phối hợp, sẽ cộng tác với Liên Hiệp Quốc trong việc thực hiện những mục tiêu ghi trong điều 55 nói trên.

4. Ý nghĩa của tuyên ngôn nhân quyền quốc tế. 

Cho đến nay, sau Hiến chương LHQ, tuyên ngôn được xem là văn kiện chính trị đặc biệt, được tất cả quốc gia, dân tộc trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, hệ tư tưởng, trình độ phát triển, bản sắc văn hóa thừa nhận và được xem là giá trị chung của nhân loại. Theo đó, ngày 10/12 hàng năm được tôn vinh là Ngày Nhân quyền thế giới. Những tư tưởng chính trị và những quy định về các quyền cơ bản của tuyên ngôn được xem là mục tiêu vươn tới của tất cả các quốc gia, dân tộc.

Ý nghĩa đương đại - lớn lao của tuyên ngôn là ở chỗ:

Thứ nhất: Tuyên ngôn là cơ sở tư tưởng - chính trị - pháp lý hình thành cơ chế quyền con người của LHQ bảo vệ quyền con người. Đó là cơ sở cho sự ra đời của Ủy ban Nhân quyền (1948 - 2006), tiếp theo là Hội đồng Nhân quyền (từ năm 2006 đến nay). Trong thời kỳ đầu, Ủy ban Nhân quyền nằm trong Hội đồng Kinh tế - Xã hội. Nhận thấy tầm quan trọng to lớn của quyền con người, năm 2006, Đại Hội đồng LHQ quyết định nâng cao vai trò của tổ chức này lên thành Hội đồng Nhân quyền - cơ quan này trực thuộc Đại Hội đồng;

Thứ hai: Tuyên ngôn là cơ sở chính trị - pháp lý để LHQ xây dựng và ban hành các công ước quốc tế về quyền con người;

Thứ ba: Tuyên ngôn là cơ sở tư tưởng hình thành cơ chế về quyền con người ở các châu lục.

Ở châu Âu, “Công ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản”  được soạn thảo từ năm 1950, có hiệu lực từ ngày 3/9/1953. Các thành viên của Liên minh châu Âu đều là thành viên công ước. Dựa trên công ước này, Tòa án Nhân quyền châu Âu ra đời. Tòa án có quyền nhận đơn và đưa ra xét xử bất cứ ai trong các quốc gia châu Âu có đơn tố cáo mình bị xâm phạm về quyền con người. Phán quyết của tòa án buộc các chính phủ trong liên minh phải có nghĩa vụ thi hành.

Ở châu Mỹ, “Công ước châu Mỹ về nhân quyền” (còn gọi là Hiệp ước San José) là văn kiện về nhân quyền chung cho các quốc gia ở châu lục này. Công ước này được các nước châu Mỹ chấp thuận trong cuộc họp ở San José (Costa Rica ngày 22/11/1969). Văn kiện này tái khẳng định tuyên ngôn và đẩy mạnh việc bảo vệ quyền con người ở châu lục này.

Ở châu Phi, “Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc” được thông qua vào ngày 27/6/1981 (có hiệu lực ngày 21/10/1981). Đây là văn kiện đặt nền tảng trong việc bảo vệ quyền con người ở châu Phi. Văn kiện này tái khẳng định tuyên ngôn và thúc đẩy việc bảo vệ quyền con người, phù hợp với tính đặc thù về lịch sử, văn hóa của châu Phi.

Cho đến nay, chưa có tổ chức nhân quyền châu Á, tuy nhiên thập niên gần đây đã có tổ chức nhân quyền ASEAN. “Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền” (AICHR) được thành lập vào ngày 1/4/2010 tại Gia-các-ta (In-đô-nê-xi-a). Ủy ban này quyền lực còn hạn chế - AICHR chỉ là cơ quan tư vấn liên chính phủ của hiệp hội. Mục đích của cơ quan này, bao gồm: Thúc đẩy và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của nhân dân các nước ASEAN; …góp phần hiện thực hóa các mục tiêu của ASEAN…; thúc đẩy nhân quyền trên cơ sở bối cảnh khu vực, ghi nhớ tính đặc thù của từng nước và của khu vực, tôn trọng sự khác biệt về lịch sử, văn hóa và tôn giáo, có tính đến sự cân bằng giữa quyền lợi và trách nhiệm;…

Trở lại tuyên ngôn, theo quan niệm chung - tuyên ngôn là văn kiện chính trị - tư tưởng, không có tính ràng buộc về mặt pháp lý. Cho nên, sau tuyên ngôn, LHQ đã xây dựng và thông qua hệ thống các công ước quốc tế về quyền con người (CU). Khác với tuyên ngôn, các CU là văn kiện có tính ràng buộc về pháp lý.

Cho đến nay LHQ đã ban hành hai công ước bảo vệ các quyền cơ bản của con người, gồm: “Công ước về các quyền dân sự và chính trị” năm 1966 (Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982); “CU về các quyền kinh tế - xã hội và văn hóa” năm 1966 (Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982). Trước đó là “Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc” năm 1969 (Việt Nam  gia nhập ngày 9/6/1982).

LHQ đặc biệt quan tâm đến xây dựng các công ước bảo vệ nhóm xã hội dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật), như: “Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” năm 1979 (Việt Nam ký kết ngày 29/7/1980, phê chuẩn ngày 17/2/1982); “Công ước về Quyền trẻ em” năm 1989 (Việt Nam ký kết ngày 26/1/1990, phê chuẩn ngày 28/2/1990; sau đó Việt Nam đã phê chuẩn hai nghị định thư bổ sung về trẻ em trong xung đột vũ trang, ký kết ngày 8/9/2000 và chống sử dụng trẻ em trong các hoạt động mại dâm và tranh ảnh khiêu dâm); “Công ước về quyền của người khuyết tật” năm 2006 (Việt Nam ký ngày 22/11/2007 và phê chuẩn ngày 5/2/2015); “Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người” (viết tắc là CAT), Việt Nam ký ngày 7/11/2013, phê chuẩn ngày 5/2/2015.

Theo quy định chung của các quốc gia, điều kiện để công ước được thực thi là: (1) Quốc gia đó chính thức gia nhập hoặc ký kết (Chính phủ), phê chuẩn (Quốc hội) công ước. (2) Công ước được nội luật hóa trong hiến pháp và hệ thống pháp luật quốc gia hoặc cơ quan lập pháp xác định công ước được thực hiện trực tiếp ở quốc gia đó (không cần “nội luật hóa…” trong hệ thống pháp luật quốc gia). Nhà nước Việt Nam lựa chọn phương thức “nội luật hóa” công ước. Cho đến nay, Nhà nước Việt Nam đã nội luật hóa tất cả công ước mà mình tham gia. Bởi vậy, có thể nói các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia đến nay được bảo đảm vững chắc bằng pháp luật.

Chương II, Hiến pháp 2013 - “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” có giá trị đặc biệt. Các quyền con người trong Chương II không phải chủ yếu là nội luật hóa các công ước về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia, mà chủ yếu là kết thừa các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992), nhất là Hiến pháp 1946. Có thể nói những quy định trong Chương II nói lên rằng, tôn trọng và bảo đảm quyền con người thuộc bản chất, xuyên suốt lịch sử Việt Nam đương đại (từ năm 1945 đến nay).

Trở lại tuyên ngôn - nói về quyền con người, sau tuyên ngôn là “Tuyên bố Viên và Chương trình hành động” (gọi tắt là tuyên bố). Đây là văn kiện Hội nghị thế giới về quyền con người (họp tại Viên (Áo) ngày 25/6/1993. Tuyên bố tái khẳng định tầm quan trọng của tuyên ngôn, đồng thời định hướng việc giải quyết nhiều vấn đề quan trọng - cập nhật về quyền con người, như quyền dân tộc tự quyết; quyền của người di cư; bạo lực dựa trên giới; quyền phát triển; tăng cường giáo dục về quyền con người và quyền được sống trong môi trường trong sạch (không bị ô nhiễm…). Đặc biệt, hội nghị đưa ra quan điểm xử lý mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người.

Trong việc bảo đảm quyền con người ở các quốc gia, cũng như đánh giá của các nước đối với việc bảo đảm quyền con người thường có hai khuynh hướng: (1) Áp đặt quan điểm của mình cho một quốc gia nào đó (thường là của một số quốc gia phương Tây, nhất là Hoa Kỳ); (2) Đưa ra quá nhiều quy định hạn chế quyền viện cớ quốc gia mình có những đặc điểm riêng… Để xử lý sự khác biệt này, tuyên bố viết: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ biến, không thể chia cắt, phụ thuộc và liên quan đến nhau... Trong khi phải luôn ghi nhớ tầm quan trọng của tính đặc thù về dân tộc, khu vực cũng như bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hóa và tôn giáo; các quốc gia, không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa, có nghĩa vụ thúc đẩy và bảo vệ tất cả các quyền và tự do cơ bản của con người” (Điều 5). Gắn liền với quan điểm trên, tuyên bố tái khẳng định quyền dân tộc tự quyết. Tuyên bố viết “Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Với quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị cũng như tự do theo đuổi con đường phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa của mình… Hội nghị thế giới về quyền con người coi việc khước từ quyền tự quyết dân tộc là sự vi phạm quyền con người” (Điều 2).

Xét về phương diện chính trị, tuyên bố Viên đã bổ sung cho tuyên ngôn về quyền của các dân tộc thuộc địa. Đây là cơ sở, điều kiện bảo đảm quyền con người đối với các dân tộc thuộc địa, lệ thuộc (vào thời kỳ đó). Ý nghĩa quan trọng của quan điểm này là các nhà nước có toàn quyền đưa ra các quy định về quyền con người phù hợp với truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa và thể chế chính trị của mình, bác bỏ các luận điệu lợi dụng quyền con người để can thiệp vào công việc của các quốc gia.

Có thể nói tuyên ngôn và các công ước đã được cộng đồng quốc tế tôn vinh, ký kết và thực hiện. Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn sự khác biệt trọng nhận thức của một số quốc gia về quyền con người. Đến nay, Hoa Kỳ đã ký kết, nhưng (Nghị viện) chưa phê chuẩn một số CU, trong đó có Công ước quốc tế về các quyền kinh tế - xã hội và văn hóa, Công ước về quyền trẻ em. Có ý kiến cho rằng, với Hoa Kỳ sở dĩ các công ước được tổng thống ủng hộ nhưng chưa được Nghị viện thông qua là do chế độ đa đảng đối lập đã dẫn đến tình trạng này.

Trong những năm gần đây, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người ở tất cả các quốc gia, Hội đồng Nhân quyền đã quyết định thực hiện “Cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR)”. Mục tiêu của UPR là cải thiện tình hình nhân quyền ở mỗi quốc gia. Để đạt được mục tiêu này, UPR sẽ đánh giá báo cáo hàng năm của các quốc gia về quyền con người; chia sẻ kinh nghiệm giữa các quốc gia và các bên liên quan khác. Đồng thời qua đó Hội đồng Nhân quyền có thể hỗ trợ kỹ thuật cho các quốc gia nhằm tăng cường năng lực để đối phó hiệu quả với những thách thức về nhân quyền trong bối cảnh mới.

Trên đây là nội dung bài viết của Luật ACC về “Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948”. Bài viết trên là những thông tin cần thiết mà quý độc giả có thể áp dụng vào đời sống thực tiễn. Trong thời gian tham khảo nếu có những vướng mắc hay thông tin nào cần chia sẻ hãy chủ động liên hệ và trao đổi cùng luật sư để được hỗ trợ đưa ra phương án giải quyết cho những vướng mắc pháp lý mà khách hàng đang mắc phải. 

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo