Phân biệt trưng cầu giám định và yêu cầu giám định

Thực tiễn nếu muốn giám định AND (xác nhận cha, mẹ, con); giám định thương tích, thiệt hại (bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng), giám định chữ ký (hợp đồng, thừa kế); … để thẩm định đính xác thực, chân thật giúp Thẩm phán có nhận định đúng đắn, từ đó làm căn cứ cho việc đưa ra phán quyết khách quan, công bằng của Hội đồng xét xử. Để được giám định chúng ta cần yêu cầu hay trưng cầu giám định, trưng cầu giám định và yêu cầu giám định có khác nhau không? Mời bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây.

Images
Phân biệt trưng cầu giám định và yêu cầu giám định

1. Giám định là gì?

Giám định được hiểu là việc người giám định sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động giải quyết vụ việc dân sự theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định, theo quy định của pháp luật.

Căn cứ theo quy định của Luật Giám định tư pháp 2012 và Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì để tiến hành giám định và có kết luận giám định được thực hiện qua 03 hình thức:

  • Trưng cầu giám định;
  • Yêu cầu trưng cầu giám định;
  • Yêu cầu giám định.

2. Phân biệt trưng cầu giám định và yêu cầu giám định

Trưng cầu giám định chỉ do Tòa án, người tiến hành tố tụng thực hiện. Còn yêu cầu giám định là quyền của đương sự sau khi đã đề nghị Tòa án, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định mà không được chấp nhận.

Trưng cầu giám định chỉ do Tòa án, người tiến hành tố tụng thực hiện. Còn yêu cầu giám định là quyền của đương sự sau khi đã đề nghị Tòa án, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định mà không được chấp nhận.

Cụ thể, việc tiến hành giám định thông qua phương thức trưng cầu giám định hay yêu cầu giám định được quy định tại Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự  2015, theo đó:

- Quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định: Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định.

Có khả năng xảy ra một trong hai trường hợp: (1) Các đương sự thỏa thuận lựa chọn biện pháp giám định và yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định hoặc; (2) Một trong các bên đương sự yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định. Và theo Điều 22 Luật giám định tư pháp 2012 thì sự thỏa thuận lựa chọn hoặc yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định phải đều được thể hiện bằng văn bản.

- Quyền tự mình yêu cầu giám định: Đương sự tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự.

Như vậy, điều kiện để đương sự thực hiện quyền tự yêu cầu giám định gồm 02 điều kiện sau:

Thứ nhất: Tòa án thụ lý vụ án từ chối trưng cầu giám định và;

Thứ hai: Việc thực hiện quyền phải trong thời hạn trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, tức là trong thời gian chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Quyền trưng cầu giám định: Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.

Như vậy, về cơ bản thì trưng cầu giám định và yêu cầu giám định là giống nhau, chỉ khác nhau ở yếu tố chủ thể yêu cầu:

Trưng cầu giám định: là việc cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định.

Yêu cầu giám định: là việc đương sự yêu cầu cơ quan tổ chức tiến hành hoạt động giám định theo quy định của Luật giám định tư pháp.

Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 vẫn tồn tại một số bất cập liên quan đến trưng cầu giám định, yêu cầu giám định của như: chưa quy định rõ số lần giám định lại, số lần giám định tối đa trong một vụ án; chưa có cơ chế giải quyết khi có các kết luận giám định mâu thuẫn nhau; giới hạn thời hạn giám định;… Ở một khía cạnh khác, mình đề cập để các bạn hiểu rõ và nhìn nhận vấn đề toàn diện hơn, đó là Luật Thương mại 2005 đã ghi nhận một số cơ chế nhằm giải quyết triệt để những vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn liên quan như quy định tại khoản 3 Điều 262 về giá trị pháp lý của chứng thư giám định:

Khi chứng thư giám định lại có kết quả khác với chứng thư giám định ban đầu thì xử lý như sau:

a) Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định ban đầu thừa nhận kết quả của chứng thư giám định lại thì kết quả của chứng thư giám định lại có giá trị pháp lý với tất cả các bên;

b) Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định ban đầu không thừa nhận kết quả của chứng thư giám định lại thì các bên thoả thuận lựa chọn một thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định khác giám định lại lần thứ hai. Kết quả giám định lại lần thứ hai có giá trị pháp lý với tất cả các bên.

3. Câu hỏi thường gặp

Thẩm quyền giám định trong tố tụng dân sự?

Căn cứ vào Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định khi Tòa án trưng cầu giám định hoặc khi đương sự có yêu cầu.

Người giám định có các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.

Người giám định phải từ chối giám định hoặc bị thay đổi trong trường hợp:

  • Người giám định đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự.
  • Có căn cứ cho rằng người giám định không vô tư trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
  • Thuộc một trong các trường hợp không được giám định tư pháp theo quy định của Luật Giám định tư pháp.
  • Đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch trong cùng một vụ án.
  • Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.

Trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì sao?

– Trường hợp chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì người đưa ra chứng cứ đó có quyền rút lại; nếu không rút lại thì người tố cáo có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Tòa án có quyền quyết định trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 102 của Bộ luật này.

– Trường hợp việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án chuyển tài liệu, chứng cứ có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

– Người đưa ra chứng cứ được kết luận là giả mạo phải bồi thường thiệt hại nếu việc giả mạo chứng cứ đó gây thiệt hại cho người khác và phải chịu chi phí giám định nếu Tòa án quyết định trưng cầu giám định.

Cần giám định chữ ký ở đâu?

  • Viện pháp y quốc gia; Trung tâm pháp y tâm thần khu vực; Viện pháp y tâm thần Trung ương trực thuộc Bộ Y tế.
  • Viện pháp y Quân đội; Phòng giám định kỹ thuật hình sự trực thuộc Bộ Quốc phòng.
  • Viện Khoa học hình sự; TT giám định pháp y thuộc Viện khoa học hình sự trực thuộc Bộ Công an.
  • Trung tâm pháp y cấp tỉnh thuộc UBND tỉnh; Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh.

Cơ sở pháp lý: Nghị định 85/2013/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 157/2020/NĐ-CP

Quy định về kết luận giám định tư pháp? 

– Kết luận giám định tư pháp phải ghi rõ họ tên người thực hiện giám định; tổ chức thực hiện giám định.

– Kết luận giám định tư pháp phải ghi rõ tên cơ quan tiến hành tố tụng; họ, tên người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định; số văn bản trưng cầu giám định hoặc họ, tên người yêu cầu giám định.

– Kết luận giám định tư pháp phải có thông tin xác định đối tượng giám định.

XEM THÊM:>>>Quy định tại Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Trên đây là một số thông tin về trưng cầu giám định và yêu cầu giám định. Cảm ơn bạn đọc đã theo dõi bài viết của ACC chúng tôi.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo