1. Một số câu hỏi về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại.
1.1 Khái niệm tranh chấp thương mại
Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được ghi nhận trong Luật Thương mại năm 1997, Điều 238 quy định “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong khuôn khổ hoạt động thương mại”. Hơn nữa, theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 thì “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. các hoạt động". Như vậy, có thể hiểu tranh chấp thương mại là sự bất đồng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại và những bất đồng đó phải xuất phát chủ yếu từ các bên, liên quan đến hoạt động thương mại hoặc phát sinh từ hoạt động thương mại.
1.2. Giải quyết tranh chấp thương mại
Có thể hiểu một cách khái quát, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh là việc đưa ra các biện pháp, hình thức, phương tiện để giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng nảy sinh giữa các bên trong quá trình tiến hành hoạt động kinh doanh. Khi việc giải quyết tranh chấp thương mại sẽ phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cụ thể của mỗi quốc gia thì hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế, các giải pháp giải quyết vấn đề sẽ phụ thuộc vào giai đoạn phát triển cụ thể của mỗi quốc gia. đất nước. Các phương thức giải quyết được sử dụng phổ biến trên thế giới hiện nay là: thương lượng, trọng tài, hòa giải, tòa án,...
1.3. Trọng tài thương mại
Trọng tài là "một phương thức giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, theo đó chỉ có hai bên tự nguyện đệ trình sự việc và tranh chấp cho bên thứ ba, người có phán quyết công bằng, công bằng và chính trực, phán quyết do người đó đưa ra có giá trị ràng buộc đối với cả hai bên". Hơn nữa, theo quy định tại Khoản 1 Mục 3 Luật Trọng tài Thương mại 2010 thì “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”. Qua đó có thể thấy trọng tài thương mại có những điểm chung sau: Là phương thức giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn được các bên thỏa thuận với nhau để lựa chọn giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên, về bản chất trọng tài thương mại không mang tính quyền lực nhà nước. Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được quy định cụ thể trong pháp luật của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam.
Cơ sở tạo nên thẩm quyền của trọng tài thương mại được xác lập chủ yếu dựa trên Luật Trọng tài thương mại 2010 và Luật Thương mại 2005, ngoài ra còn có các cơ sở pháp lý khác như: Luật mẫu về trọng tài thương mại của ủy ban Liên Hợp Quốc về luật Thương mại Quốc tế năm 1985, Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định Luật trọng tài thương mại,...căn cứ để xác lập tạo nên thẩm quyền của trọng tài thương mại dược dựa trên tiêu chí sau: Những loại việc thuộc thẩm quyền của trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật, sự thỏa thuận giữa các bên khi xảy ra tranh chấp được thể hiện bằng một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực.
2. Quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại
2.1. Phạm vi giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài
Theo quy định thì các bên xảy ra tranh chấp được phép thỏa thuận lựa chọn trọng tài tuy nhiên chỉ áp dụng đối với những lĩnh vực mà pháp luật quy định trọng tài có thẩm quyền giải quyết đây là yếu tố đóng vai trò quyết định dân đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, từ đó mới xác định được vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Theo quy định của Luật Thương mại 2005, trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại, bao gồm các hành vi cụ thể sau: mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi. Tuy nhiên, năm 2010 Luật Trọng tài Thương mại đã được ban hành, với những quy định cụ thể về phạm vi thẩm quyền của trọng tài như sau:
“Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại”, đây là loại tranh chấp phổ biến nhất thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài, khi các bên ký kết hợp đồng nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng,… có thể đã vi phạm quyền, nghĩa vụ và phát sinh tranh chấp. Tranh chấp này sẽ được các bên lựa chọn trọng tài hoặc Toà án để giải quyết, nếu lựa chọn trọng tài thì giữa các bên phải có thoả thuận đưa tranh chấp ra trọng tài để giải quyết. Thẩm quyền của trọng tài phụ thuộc vào loại tranh chấp và sự lựa chọn của các bên, chứ không phụ thuộc vào lãnh thổ hoặc cấp độ trọng tài và sự lựa chọn của một bên.
“Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại” là điểm mới trong Luật Trọng tài Thương mại 2010 so với Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003, việc mở rộng các kỹ năng trọng tài nhằm thu hút nhiều khách hàng hơn. Trọng tài còn có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định phải giải quyết bằng trọng tài, quy định này đã tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luật Trọng tài Thương mại 2010 đã mở rộng phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp nhằm khắc phục những bất cập của Luật Trọng tài Thương mại 2005. Với sự ra đời của Luật này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các Trung tâm trọng tài trong quá trình xác định thẩm quyền, thụ lý và giải quyết tranh chấp. tranh chấp thì phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp không chỉ giới hạn đối với các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại mà còn mở rộng đối với các tranh chấp liên quan đến hoạt động thương mại. một bên có hoạt động thương mại và các tranh chấp khác thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài.
Theo ý kiến của GS. Đào Trí Úc “Việc mở rộng thẩm quyền của trọng tài là phù hợp với bản chất của các quan hệ kinh tế - xã hội hiện nay trong điều kiện Việt Nam là một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Theo đó, ngoài thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại, pháp luật phải mở rộng lĩnh vực pháp luật dân sự, lao động theo yêu cầu của các bên và các bên tranh chấp không chỉ là tổ chức, cá nhân thương mại. Là một hình thức trọng tài tư, trọng tài phải được tạo điều kiện thuận lợi để có thể giải quyết mọi tranh chấp tư, bao gồm tranh chấp hợp đồng và ngoài hợp đồng, trừ những tranh chấp liên quan đến lợi ích công cộng và trật tự công cộng”. Vấn đề mở rộng thẩm quyền của trọng tài là một tất yếu tất yếu trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, thực tiễn cho thấy việc mở rộng phạm vi thẩm quyền sẽ giải quyết được vấn đề xung đột thẩm quyền của Tòa án và trọng tài. Hơn nữa, nếu thẩm quyền chỉ giới hạn trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại, thì không những khó xác định thẩm quyền đối với một tranh chấp cụ thể mà còn có thể dẫn đến việc các tòa án lạm dụng trong việc hủy phán quyết trọng tài, bởi vì các điều kiện đều không được áp dụng. để tòa án hủy quyết định này là vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Nếu tranh chấp không được xác định rõ ràng, trong nhiều trường hợp, tòa án có thể hủy phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, khi mở rộng phạm vi trọng tài cần phù hợp với thực tiễn khách quan và luật pháp quốc tế, đồng thời cần học hỏi thêm kinh nghiệm quốc tế để lý luận chung và thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại trở nên tương thích.
2.2. Phạm vi Mục đích Giải quyết Tranh chấp Kinh doanh Thông qua Trọng tài
Theo quy định của Luật Trọng tài thương mại, trọng tài “là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”, trong đó thuật ngữ “các bên” có nội hàm rất rộng. Nhưng có thể thấy ở khái niệm hoạt động kinh doanh trong luật này cũng như trong Nghị định số 63/2011/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật trọng tài thương mại hiện hành. phạm vi đối tượng tranh chấp bao gồm: cá nhân, tổ chức nào cũng có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp miễn là tranh chấp đó thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. .
Đối tượng giải quyết tranh chấp thương mại dành cho các Trọng tài viên thông qua Hội đồng Trọng tài gồm một Trọng tài viên độc lập hoặc thông qua Hội đồng Trọng tài gồm nhiều Trọng tài viên. Trọng tài viên là người do các bên lựa chọn hoặc do trung tâm trọng tài hoặc tòa án chỉ định để giải quyết tranh chấp đang diễn ra giữa các bên theo quy định tại Luật Trọng tài 2010. Trọng tài viên phải có đủ các tiêu chuẩn sau: Có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có bằng đại học và có kinh nghiệm chuyên môn thực tế trong lĩnh vực đã học từ 5 năm trở lên, ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thực tế công tác không đáp ứng yêu cầu học tập, thực tế công tác theo ngành nghề vẫn có thể được chọn làm trọng tài viên. Các trường hợp không được làm trọng tài viên theo khoản 2, mục 20 Luật Trọng tài Thương mại 2010 bao gồm:
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, cán bộ của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án. Người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc người đã chấp hành xong bản án mà chưa được xóa án tích. Ngoài các quy định trên, trung tâm trọng tài có thể đưa ra các quy định về tiêu chuẩn cao hơn tiêu chuẩn tiêu chuẩn trong việc lựa chọn trọng tài viên.
Trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước nên bản thân trọng tài viên không phải là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
2.3. Thỏa thuận trọng tài
Nếu phạm vi tranh thuộc tranh chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài và phạm vi về chủ thể là các điều kiện cần để trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp, thì việc hình thành một thỏa thuận trọng tài sẽ là điều kiện bắt buộc làm căn cứ phát sinh thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại. vì vậy thỏa thuận trọng tài đóng vai trò quyết định đối với việc áp dụng trọng tài như một phương thức để giải quyết tranh chấp. Cũng vì vậy mà thỏa thuận trọng tài đã được quy định cụ thể và chi tiết tại chương II của Luật Trọng tài thương mại 2010 với những nội dung chính sau:
Đầu tiên Luật Trọng tài thương mại 2010 đã có giải thích về khái niệm thỏa thuận trọng tài tại khoản 2 điều 3 “thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh” tại quy định này đã sửa đổi nhằm khắc phục những bất cập tại Luật trọng tài thương mại 2003 khi quy định không hạn chế về phạm vi chủ thể có thể tham gia thỏa thuận. Thỏa thuận trọng tài là sự thống nhất ý chí của các bên về việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng bằng phương thức trọng tài, khi các bên thiết lập một thỏa thuận trọng tài có nghĩa là họ đã trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại cho trọng tài và tòa án không có thẩm quyền giải. Vì vậy, thẩm quyền của trọng tài được xác lập trên cơ sở thỏa thuận trọng tài. Theo quy định, có hai loại thỏa thuận trọng tài cơ bản bao gồm:
Điều khoản trọng tài là điều khoản có trong thỏa thuận chính giữa các bên, là thỏa thuận đưa các tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai ra trọng tài thương mại để giải quyết. Các điều khoản trọng tài thường ngắn gọn vì các bên không rõ ràng về những loại tranh chấp nào có thể phát sinh trong tương lai và cách tốt nhất để giải quyết những tranh chấp đó. Thỏa thuận giải quyết tranh chấp đã phát sinh là thỏa thuận đưa tranh chấp đang tồn tại ra trọng tài thương mại để giải quyết, thỏa thuận có thể được điều chỉnh cho phù hợp và nhất quán với các tình tiết của vụ việc, bao gồm tên trọng tài viên, vấn đề tranh chấp, ... .
Theo quy định tại mục 16 Luật trọng tài thương mại 2010, hình thức của thỏa thuận có thể được “xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng”, điều khoản trong hợp đồng được quy định cụ thể của các bên, các bên ký kết và thỏa thuận cũng như đăng ký việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là một trong các điều khoản của hợp đồng. Thỏa thuận riêng giữa các bên về việc giao kết hợp đồng không ghi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là quy định của hợp đồng ghi nhận sự thỏa thuận đó trong văn bản hợp đồng mà các bên đã ký kết trước đó. Mặt khác, hình thức văn bản của thỏa thuận trọng tài là yêu cầu bắt buộc, các hình thức sau đây cũng được coi là văn bản như: Điện tín, fax, telex, email, hợp đồng, chứng từ,.. Điều khoản trọng tài sẽ tồn tại độc lập với hợp đồng, các trường hợp dẫn đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu quy định tại Điều 18 Luật trọng tài thương mại bao gồm: thẩm quyền của trọng tài viên, người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền, người xác lập thỏa thuận trọng tài không không có năng lực hành vi dân sự, hình thức thỏa thuận trọng tài không phù hợp, “một trong các bên lừa dối, đe dọa, ép buộc khi xác lập thỏa thuận trọng tài và yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu”, cuối cùng thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm như do pháp luật quy định. .
3. Thực tế
Theo một báo cáo thống kê về tình hình thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, có tới 84% doanh nghiệp chưa từng đưa tranh chấp ra trọng tài, trong đó số doanh nghiệp lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp chỉ chiếm 16%. Sau khi nước ta ban hành Luật trọng tài thương mại 2010, năm 2014, tổng số vụ tranh chấp được giải quyết tại các trung tâm trọng tài ở Việt Nam là 879 vụ. Có thể thấy, sau khi luật trọng tài thương mại 2010 có hiệu lực, số vụ tranh chấp thương mại giải quyết bằng trọng tài tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các trung tâm trọng tài chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp thương mại hiện nay, đặc biệt theo số liệu của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), trọng tài thương mại mới chỉ giải quyết được 1% tranh chấp thương mại.
Nội dung bài viết:
Bình luận