Hủy hoại tài sản là hành vi làm cho tài sản bị mất giá trị sử dụng hoặc làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản. Tội hủy hoại tài sản của người khác là tội phạm đã được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự. Trong bài viết dưới đây chúng ta cùng tìm hiểu các quy định pháp luật về tội hủy hoại tài sản.
Tội hủy hoại tài sản
1. Quy định pháp luật về tội hủy hoại tài sản
Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 đã quy định về tội hủy hoại tài sản như sau:
-Người nào hủy hoại tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm;
+ Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
+ Tài sản là di vật, cổ vật.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
+ Có tổ chức;
+ Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
+ Tài sản là bảo vật quốc gia;
+ Dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
+ Để che giấu tội phạm khác;
+ Vì lý do công vụ của người bị hại;
+ Tái phạm nguy hiểm.
- Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
2. Cấu thành tội phạm của tội hủy hoại tài sản
2.1. Chủ thể của tội hủy hoại tài sản
Chủ thể của tội hủy hoại tài sản phải là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều luật, vì hai khoản này chỉ là tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, nhưng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 3 và khoản 4 của Điều luật vì hai khoản này là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2.2. Khách thể của tội hủy hoại tài sản
Khách thể của tội huỷ hoại tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu.
2.3. Mặt khách quan của tội hủy hoại tài sản
Hành vi khách quan: Làm cho tài sản mất hẳn giá trị sử dụng không thể khôi phục lại được và như vậy toàn bộ giá trị tài sản không còn như lúc ban đầu.
Hành vi huỷ hoại tài sản được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện như: Đốt cháy, đập phá, dùng thuốc nổ, dùng chất độc, hoá chất hoặc lợi dụng thiên tai để huỷ hoại tài sản...
Hậu quả: Hậu quả là yếu tố bắt buộc phải có ở tội này, nếu chưa có hậu quả xảy ra thì chưa cấu thành tội phạm và tội phạm này cũng không có giai đoạn phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi huỷ hoại tài sản gây ra là những thiệt hại về thể chất, tinh thần, nếu là thiệt hại về vật chất thì những thiệt hại này không phải là thiệt hại về tài sản do hành vi huỷ hoại trực tiếp gây ra.
2.4. Mặt chủ quan của tội hủy hoại tài sản
Người phạm tội hủy hoại tài sản của người khác thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Người phạm tội huỷ hoại tài sản xuất phát từ nhiều động cơ khác nhau như: để trả thù, vì ghen tuông... nhưng chủ yếu là vì tư thù. Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, mà nó chỉ có ý nghĩa trong việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm.
Trên đây là toàn bộ tư vấn của chúng tôi về chủ đề: Tội hủy hoại tài sản theo Bộ luật Hình sự. Nếu các bạn có bất cứ câu hỏi nào về chủ đề: Tội hủy hoại tài sản có thể liên hệ trực tiếp với chúng tôi để có được câu trả lời chính xác nhất. Với đội ngũ luật sư và chuyên viên pháp lý chuyên nghiệp, lành nghề chúng tôi cam kết cung cấp dịch vụ pháp lý chất lượng, giá cả hợp lý.
Nội dung bài viết:
Bình luận