Nhiều trường hợp pháp luật quy định chỉ được phép khởi tố khi có yêu cầu của bị hại. Vậy đó là những trường hợp nào? Tại sao phải quy định về việc khởi tố theo yêu cầu của bị hại? Cùng theo dõi nội dung bài viết dưới đây của công ty Luật ACC để tìm hiểu chi tiết về tội danh khởi tố theo yêu cầu bị hại nhé.
Tội danh khởi tố theo yêu cầu bị hại
1. Tội danh khởi tố theo yêu cầu bị hại là gì?
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là trường hợp đặc biệt mà do tính chất của vụ án và vì lợi ích của người bị hại, cơ quan có thẩm quyền không tự ý quyết định việc khởi tố mà việc khởi tố vụ án hình sự được thực hiện theo yêu cầu của người bị hại.
2. Ý nghĩa của quy định về tội danh khởi tố theo yêu cầu bị hại
Pháp luật của Nhà nước ta quy định việc tội danh khởi tố theo yêu cầu bị hại là quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc duy trì trật tự và bảo vệ công lý là không phụ thuộc vào ý muốn của riêng ai.
Do vậy, quyết định khởi tố vụ án hình sự nói chung là hành vi mà cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện khi xác định có dấu hiệu tội phạm, không một ai có thể can thiệp để không khởi tố và không phụ thuộc vào việc người có lợi ích bị xâm hại có đồng ý hay không.
Ý nghĩa của việc quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là ở chỗ, một trong những mục tiêu quan trọng của cuộc đấu tranh với tội phạm mà Nhà nước và xã hội tổ chức là vì bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những con người, cá nhân công dân của Nhà nước, thành viên của xã hội đó.
3. Tội danh khởi tố theo yêu cầu bị hại theo Bộ luật Hình sự mới nhất
Tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự trong đó quy định về các tội danh khởi tố theo yêu cầu bị hại, cụ thể:
“1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
- Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
- Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”
4. Giới hạn giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại
Trường hợp vụ án có nhiều bị hại nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu khởi tố vụ án, những người còn lại không yêu cầu khởi tố vụ án do nhiều nguyên nhân khác nhau đã phát sinh vướng mắc trong việc xác định những người không yêu cầu khởi tố vụ án có được coi là bị hại không, trường hợp này có khởi tố vụ án hình sự hay không.
Nếu cơ quan tiến hành tố tụng không ra quyết định khởi tố vụ án hình sự sẽ không bảo vệ được quyền, lợi ích của người bị hại có yêu cầu khởi tố và ngược lại nếu ra quyết định khởi tố vụ án hình sự lại ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người bị hại không có yêu cầu khởi tố.
Trường hợp này cơ quan tiến hành tố tụng phải khởi tố vụ án hình sự để điều tra và giải quyết toàn diện các vấn đề trong vụ án, xác định đầy đủ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, phải đặt lợi ích của tất cả bị hại bên cạnh lợi ích của từng bị hại cũng như lợi ích chung của xã hội trong việc xử lý hành vi phạm tội.
5. Bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án tại giai đoạn xét xử phúc thẩm xử lý như thế nào?
Điều 155 BLTTHS năm 2015 không giới hạn quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại; bị hại có thể rút yêu cầu khởi tố vụ án ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm hoặc giai đoạn xét xử phúc thẩm, vấn đề là cơ quan tiến hành tố tụng phải giải quyết yêu cầu của bị hại một cách hợp lý, đúng quy định pháp luật.
Khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định “trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ”. Quy định này chỉ hợp lý trong trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn điều tra, truy tố, trước khi mở phiên tòa sơ thẩm hoặc tại phiên tòa sơ thẩm. Căn cứ, thủ tục đình chỉ vụ án trong các trường hợp này được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 230; khoản 1 Điều 248 và khoản 1 Điều 282 BLTTHS năm 2015. Thực tế có thể phát sinh trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Khi bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm sẽ khó khăn cho cấp phúc thẩm trong vấn đề xử lý, bởi lẽ các quy định về xét xử phúc thẩm của BLTTHS năm 2015 không đề cập đến vấn đề bị hại rút yêu cầu khởi tố và hướng giải quyết yêu cầu như thế nào? Sau đây, tác giả phân tích từng trường hợp cụ thể:
Trường hợp thứ nhất, bị hại rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên tòa xét xử phúc thẩm. Trường hợp này Toà án phải giải thích cho bị hại về hậu quả của việc rút yêu cầu khởi tố và Tòa án vẫn phải mở phiên tòa xét xử vụ án, không thể đình chỉ vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 282 BLTTHS như đối với thủ tục xét xử sơ thẩm được. Bởi lẽ, thủ tục xét xử phúc thẩm không quy định đình chỉ vụ án mà chỉ có đình chỉ xét xử phúc thẩm. Nếu Tòa án căn cứ vào việc rút yêu cầu của bị hại để đình chỉ xét xử phúc thẩm thì bản án sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật, khi đó việc rút yêu cầu khởi tố của bị hại sẽ không có ý nghĩa, người phạm tội vẫn phải chấp hành hình phạt theo quyết định của bản án sơ thẩm.
Trường hợp thứ hai, bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa phúc thẩm. Trường hợp này Tòa án cũng không đình chỉ vụ án như tại phiên tòa sơ thẩm, về nguyên tắc và thủ tục tố tụng, Tòa án phải căn cứ vào khoản 2 Điều 155; điểm d khoản 1 Điều 355 BLTTHS năm 2015 để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Tuy nhiên, đối chiếu Điều 359 BLTTHS năm 2015 quy định về căn cứ để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án lại không có trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án. BLTTHS không quy định cụ thể vấn đề bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm dẫn đến quyền rút yêu cầu khởi tố của bị hại được luật quy định, nhưng khi quyền này được thực hiện trên thực tế, cơ quan tiến hành tố tụng lại không có cơ sở pháp lý để giải quyết đúng theo nguyên tắc, thủ tục xét xử phúc thẩm.
Trên đây là toàn bộ tư vấn của chúng tôi về mức phạt tù đối với tội danh khởi tố theo yêu cầu bị hại để bạn đọc tham khảo. Nếu bạn cần hỗ trợ hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của chúng tôi, đừng ngần ngại liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ nhanh nhất và cụ thể các vấn đề pháp lý nhé.
Nội dung bài viết:
Bình luận