1. Thực trạng hoạt động khai thác, nuôi trồng và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Trong chiến lược phát triển tổng thể ngành thủy sản Việt Nam, nghề khai thác và nuôi trồng thủy sản hướng đến xuất khẩu. Thời gian qua, ngành thủy sản đã tích cực đẩy mạnh các tiêu chuẩn quốc tế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất, gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu. Đầu tư phát triển thủy sản tương đối toàn diện, giá trị sản lượng tăng liên tục trong 26 năm qua. Số liệu cho thấy sản lượng thủy sản nước tôi tăng hơn 6 lần trong giai đoạn 1995 - 2020, từ 1,3 triệu tấn năm 1995 lên 8,4 triệu tấn năm 2020.
Năm 2021, mặc dù gặp nhiều khó khăn do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 nhưng sản lượng thủy sản cả nước vẫn tăng gần 4% so với năm 2020, đạt 8,73 triệu tấn. Xét về cơ cấu, sản lượng khai thác thủy sản chiếm 44,5% và sản lượng nuôi trồng chiếm 55,5% tổng sản lượng thủy sản.
Về thủy sản, có khoảng 2.000 loài cá sinh sống ở biển Hoa Đông, trong đó có 130 loài có giá trị kinh tế cao là cá thu, cá ngừ và cá tra. Vùng biển nước ta có trữ lượng thuỷ sản rất lớn. Khai thác hải sản cũng là nghề mưu sinh truyền thống, lâu đời của một bộ phận lớn dân cư ven biển và hải đảo nước ta. Những yếu tố đó đã tạo điều kiện thuận lợi để nghề cá nước ta trở thành một trong những mũi nhọn phát triển kinh tế biển.
Việt Nam đã đưa ra nhiều quy định về nghề cá như: hỗ trợ tín dụng đóng tàu đánh bắt xa bờ, hỗ trợ chi phí nhiên liệu, hỗ trợ bảo hiểm, hỗ trợ lập kế hoạch giảm tổn thất sau thu hoạch, khắc phục rủi ro, thiên tai, hỗ trợ trang thiết bị thông tin, giám sát hoạt động tàu cá. trên biển, và tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh chóng Xây dựng đội tàu đánh bắt xa bờ và đặt nền móng cho sự gia tăng nhanh chóng sản lượng.
Đặc biệt, nhà nước luôn tập trung kinh phí đầu tư công cho việc hiện đại hóa và phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng như cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá, âu thuyền, trung tâm, dịch vụ hậu cần nghề cá… Ngoài ra, chính sách còn nhằm khuyến khích tiếp thu và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào quá trình khai thác khoáng sản. Nhà nước cũng đào tạo lao động có trình độ cao, chất lượng cao ở các trình độ cao đẳng, trung cấp kỹ thuật, cao đẳng nghề để phục vụ phát triển thủy sản.
Tính đến năm 2021, cả nước có tổng số 71 nơi trú ẩn an toàn cho tàu cá tại 27 tỉnh, thành phố ven biển có điều kiện hoạt động. Những khu neo đậu này có thể neo đậu các tàu đánh cá dài từ 15m đến 60m để tránh gió và mưa. Trong số 71 nơi trú ẩn an toàn, 16 nơi là khu vực và phần còn lại là tỉnh. Hiện có 3 khu neo đậu tránh trú bão đủ điều kiện hoạt động với sức chứa 2.000 tàu cá gồm: Vịnh Xuân Đài (Phú Yên), Cam Ranh (Khánh Hòa), khu neo đậu tại Cần Cò (TP. Hồ Chí Minh). .Khu bến an toàn, âu thuyền bảo đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng, tài sản của ngư dân, đồng thời là nơi xử lý, khắc phục, sửa chữa tàu cá khi tàu cá gặp sự cố trong quá trình đánh bắt hải sản.
Thông thường, âu thuyền Song Tử Tây nằm trong quần đảo Nam Sa do Đoàn tàu 128 thuộc Công ty Tân Cảng Sài Gòn quản lý và khai thác, có khả năng đảm bảo an toàn cho khách. Khoảng 80 tàu đã vào tránh bão, cung cấp nước ngọt, sửa chữa miễn phí, cung cấp nhiên liệu, lương thực, thực phẩm với giá như vào đất liền. Đồng thời, bố trí ngư dân vào đảo trú mưa gió, bố trí nơi ăn, nghỉ trên đảo. Kể từ khi được đưa vào khai thác từ năm 2008, âu thuyền đã giúp hàng nghìn tàu cá và hàng chục nghìn ngư dân hoạt động trên các ngư trường truyền thống của Việt Nam, đặc biệt giúp người dân tiết kiệm chi phí, nhiên liệu, bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản.
Ngoài ra, 92 cảng cá tại 27 tỉnh, thành phố ven biển đã đi vào hoạt động, đáp ứng cho 82.000 lượt tàu cập cảng bốc dỡ hàng hóa, 49 cảng cá quy định được cấp chứng chỉ đủ điều kiện khai thác hải sản.
Dưới tác động tích cực của chính sách, sản lượng thủy sản đã tăng hơn 4 lần trong giai đoạn 1995 - 2020, với mức tăng bình quân hàng năm là 6%, từ 929.000 tấn năm 1995 lên 3,85 triệu tấn năm 2020. Sản lượng thủy sản năm 2021 đạt 3,92 triệu tấn, tăng 0,9% so với năm 2020, bất chấp nhiều tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19.
Bốn vùng có tổng sản lượng thủy sản cả nước lớn nhất hiện nay là Bắc Trung Bộ, Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng. Đến cuối năm 2020, cả nước có tổng số 94.572 tàu cá, trong đó: 45.950 tàu cá 6-12 mét, 18.425 tàu cá 12-15 mét, 27.575 tàu cá 15-24 mét, và 2.662 tàu cá từ 24 mét trở lên. Cả nước có 4.227 tổ khai thác, 29.588 tàu cá, 179.601 khai thác hải sản xa bờ.
Về cơ cấu đội tàu, có 17.078 tàu cá lưới kéo, chiếm 18,1% tổng số tàu đang hoạt động; 7.212 tàu lưới vây, chiếm 7,6%; 33.538 tàu lưới rê, chiếm 35,5%; 16.043 tàu cá, chiếm 17 %; tàu nghiệp vụ khác 17.543 tàu, chiếm 18,5%; 3.158 tàu dịch vụ hậu cần, chiếm 3,3%.
Khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung hiện có số lượng tàu trên 90 CV hoạt động cao nhất với 19.440 chiếc năm 2018 và tăng lên 20.119 chiếc vào năm 2020. Đồng bằng sông Hồng sở hữu tổng công suất của các tàu này. Năng lực sản xuất trên 90 xe thấp, năm 2018 chỉ đạt 599.200 xe, năm 2020 sẽ tăng lên 723.600 xe.
Đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản, Việt Nam được đánh giá là có nhiều tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản. Bờ biển dài hơn 3.260 km, với 112 cửa sông, lạch, có tiềm năng nuôi trồng thủy sản nước lợ phong phú. Ngoài ra, hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ nằm rải rác ven biển, là khu vực có thể nuôi trồng thủy sản quanh năm. Vùng biển có hơn 3.000 đảo lớn nhỏ, trong đó có những đảo lớn có dân cư sinh sống như Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quốc, Côn Đảo, Phú Quốc có nhiều vịnh, vũng, khe nứt, dòng hải lưu. Đây là ngư trường thuận lợi cho nghề cá, đồng thời là nơi có điều kiện tự nhiên đặc thù để phát triển nuôi trồng hải sản và xây dựng cơ sở hậu cần nghề cá. Ngoài điều kiện tự nhiên là đại dương, Việt Nam còn có nguồn lợi thủy sản nước ngọt của 2.860 con sông lớn nhỏ và hàng triệu ha đất ngập nước, ao đầm, trũng và rừng ngập mặn, đặc biệt là sông Hồng và sông Cửu Long trên lưu vực.
Trong giai đoạn 1995 - 2020, sản lượng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam đã tăng gấp 11 lần, với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 10%, từ 415.000 tấn năm 1995 lên gần 4,6 triệu tấn năm 2015. 2020.
Trong đó, năm 2021, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản đạt 1,13 triệu ha, sản lượng 4,8 triệu tấn; so với năm 2010, diện tích đất nuôi trồng chỉ tăng 10,8% nhưng sản lượng tăng 77,7% trong năm. cùng thời kỳ. Nhờ đó, giá trị sản phẩm nuôi trồng thủy sản trên một ha tăng từ 103,8 triệu đồng/ha năm 2010 lên 241,2 triệu đồng/ha năm 2021. Đồng thời, điều này thể hiện sự cải tiến quy trình, tăng năng suất nuôi trồng liên tục và bền vững.
Cá tra và tôm thẻ chân trắng là hai nhóm sản phẩm chủ lực trong ngành nuôi trồng thủy sản nước ta. Các sản phẩm tôm và cá tra được sản xuất theo các tiêu chuẩn quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm nghiêm ngặt của quốc tế như GlobalGAP, ASC, BAP... Trong đó, sản lượng nuôi tôm nước lợ đạt 970.000 tấn vào năm 2021, trong đó 665.000 tấn Penaeus vannamei và Nam Mỹ 265.000 tấn tôm thẻ chân trắng. tôm sú, còn lại là các loại tôm khác. Năm 2021, sản lượng cá tra đạt 1,525 triệu tấn. Tổng diện tích nuôi cá tra năm 2021 đạt 5.000 ha, tăng 5,5% so với năm 2020. Cả nước hiện có 2.063 trại sản xuất giống tôm nước mặn, 96 trại cá tra giống, trong đó có 80 trại đang hoạt động) và 2.289 trại cá tra giống trên cả nước. Hoạt động nuôi trồng thủy sản xuất khẩu tập trung chủ yếu ở ĐBSCL (95% tổng sản lượng cá tra và 80% tổng sản lượng tôm).
Vùng ven biển bước đầu tập trung nuôi trồng thủy sản biển, đảo có giá trị kinh tế cao, thị trường tiêu thụ tốt, như cá biển (Quảng Ninh, Nghệ An, Thanh Hóa, Bà Rịa Vũng Tàu, Kiên Giang...), tôm hùm (Phú Yên, Khánh Hóa , Quảng Bình), nhuyễn thể 2 mảnh vỏ (Tiền Giang, Bến Tre, Nam Định, Thái Bình).
Ngành chế biến thủy sản của Việt Nam đang ở mức tốt trên thế giới. Các doanh nghiệp quy mô công nghiệp có liên quan đến xuất khẩu đều đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm quốc gia, trong đó có khoảng 500 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang các thị trường khó tính như: Nhật Bản, Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, Canada...
Đối với hoạt động xuất khẩu thủy sản, hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản phát triển đã tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng xuất khẩu thủy sản. Trong giai đoạn 1997 - 2020, xuất khẩu thủy sản của nước ta tăng 11 lần, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 10%, từ 758 triệu USD năm 1997 lên 8,5 tỷ USD năm 2020. Năm 2021, mặc dù chịu ảnh hưởng của làn sóng Covid-19, nhưng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt tổng trị giá hơn 8,88 tỷ USD, tăng 5,7% so với năm 2020. Từ năm 2014 đến nay, Việt Nam luôn nằm trong top 3 nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới, chỉ đứng sau Trung Quốc và Na Uy.
Đến hết năm 2021, Việt Nam xuất khẩu thủy sản sang hơn 150 thị trường trên thế giới. Trong đó, 6 thị trường lớn là Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên minh châu Âu, Hàn Quốc và ASEAN chiếm gần 80% giá trị xuất khẩu và nhu cầu đối với từng mặt hàng ở mỗi thị trường gần như khác nhau.
Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là tôm, cá tra, cá biển, nhuyễn thể và thủy sản đông lạnh cũng như thủy sản khô và chế biến. Ngoài ra còn có các sản phẩm cao cấp như bào ngư, cá ngừ, nghêu và các loại hải sản khác... Đang dần được bổ sung nhưng so với cung cầu quốc tế thì sản lượng còn thấp.
Trong đó, xuất khẩu tôm chiếm tỷ trọng cao nhất (chiếm khoảng 45% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản), có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định nhất. Trong giai đoạn 1998-2020, giá trị xuất khẩu tôm đã tăng hơn 8 lần, từ 457 triệu USD lên 3,73 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân hàng năm 10%. Trong đó, giá trị xuất khẩu tôm tăng 22,3% trong năm 2017, chủ yếu nhờ sản lượng xuất khẩu tôm chân trắng tăng mạnh 29%. Hiện sản lượng tôm xuất khẩu của Việt Nam đứng thứ 3 thế giới, sau Ấn Độ và Ecuador.
Tỷ trọng xuất khẩu tôm trong xuất khẩu thủy sản tăng từ 36% lên 50%. Tôm thẻ chân trắng ngày càng chiếm vị trí dẫn đầu trong xuất khẩu các sản phẩm tôm với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm gần 9% trong 5 năm qua.
Các thị trường tiêu thụ tôm chính của Việt Nam là Hoa Kỳ (chiếm 20-23% tổng XK tôm hàng năm của cả nước), Liên minh châu Âu (chiếm 15-20%), Trung Quốc (13-15%) và Hàn Quốc. %). Đáng chú ý là trong số các thị trường lớn, XK tôm sang Trung Quốc đang có sự bứt phá mạnh nhất, với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020 là 9%, từ 436 triệu USD năm ngoái lên 526 triệu USD năm 2020. Xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản cũng duy trì mức tăng trưởng khả quan trong năm 2016.
Xét ở góc độ cơ cấu sản phẩm, tôm chế biến XK hiện chỉ chiếm hơn 50% tổng lượng XK, sản phẩm tôm XK sang Trung Quốc chủ yếu là dạng tươi (tôm sú nguyên con, bỏ đầu). Tuy nhiên, sản phẩm tôm Việt Nam dù chế biến hay tươi sống đều được thị trường quốc tế ưa chuộng nhờ mẫu mã đẹp, chất lượng ổn định và đồng đều. Tôm Việt Nam đứng đầu tại Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia, thứ hai tại Liên minh châu Âu, thứ tư tại Trung Quốc, thứ năm tại Hoa Kỳ và các thị trường lớn khác tiếp tục duy trì thứ hạng cao. Tôm thẻ chân trắng của nước ta chủ yếu được tiêu thụ tại Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Nhật Bản, trong khi tôm sú được tiêu thụ lớn tại Nhật Bản, Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Từ năm 1998 đến năm 2020, giá trị xuất khẩu cá tra Việt Nam đã tăng 162 lần, từ 9,3 triệu USD năm 1998 lên 1,5 tỷ USD năm 2020, với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 26%. Năm 2021, giá trị xuất khẩu cá tra đạt 1,61 tỷ USD, tăng 7,3% so với năm 2020, chiếm khoảng 18% giá trị xuất khẩu toàn ngành thủy sản.
Cá tra được coi là đang trở nên phổ biến trên toàn thế giới do giá trị dinh dưỡng cao. Hiện Việt Nam chiếm 90-94% thị phần cá tra thế giới. Tính đến năm 2021, Việt Nam đã xuất khẩu cá tra sang 138 thị trường. Chín thị trường lớn là Trung Quốc và Hong Kong (Trung Quốc), Hoa Kỳ, ASEAN, Liên minh châu Âu, Vương quốc Anh, Mexico, Brazil và Colombia chiếm khoảng 80% tổng xuất khẩu cá tra của cả nước. Đặc biệt, từ năm 2020 đến nay, Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành thị trường nhập khẩu cá tra lớn nhất của Việt Nam bất chấp việc Trung Quốc duy trì các chính sách kiểm soát chặt chẽ dịch COVID-19. Trong đó, Việt Nam là nhà cung cấp cá tra đông lạnh duy nhất của Trung Quốc. Năm 2021, xuất khẩu cá tra Việt Nam sang Trung Quốc sẽ đạt 450 triệu USD.
Tại thị trường Hoa Kỳ, cuối tháng 6/2021, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã công bố kết quả cuối cùng của đợt xem xét hành chính thuế chống bán phá giá lần thứ 16 (POR16). Từ ngày 1 tháng 8 năm 2018 đến ngày 31 tháng 7 năm 2019. Do đó, hai doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam: Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn (VINH HOAN CORP - Đồng Tháp) và Công ty Cổ phần Nam Việt (NAVICO - An Giang) được hưởng thuế suất 0%. Động thái tích cực này đã thúc đẩy xuất khẩu cá tra sang thị trường này tăng trưởng mạnh. Năm 2021, tổng giá trị xuất khẩu cá tra Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ đạt 370,6 triệu USD, gấp đôi so với năm 2020.
Việt Nam có gần trăm nhà máy cá tra, basa, chủ yếu ở ĐBSCL. Hầu hết các cơ sở này đều được trang bị các thiết bị và công nghệ tiên tiến cho phép tự động hóa một số công đoạn của dây chuyền sản xuất và tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng.
2. Một số hạn chế, khó khăn cơ bản đối với ngành thuỷ sản
Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực trong giai đoạn vừa qua, nhưng ngành thủy sản Việt Nam hiện đang đứng trước nhiều thách thức để tiếp tục đà tăng trưởng trong thời gian tới. Đặc biệt:
Về hoạt động khai thác thủy sản, hầu hết các tàu của nước tôi hoạt động độc lập, quy mô nhỏ, đối với những tàu có công suất nhỏ thì sản lượng khai thác xa bờ tương đối lớn, chiếm hơn 40% là lớn, chi phí sản xuất cao và thấp hiệu quả khai thác; lực lượng lao động thủy sản còn yếu, thiếu cả về số lượng và chất lượng (chủ yếu khai thác theo kinh nghiệm). Nguồn lợi thủy sản và năng suất thủy sản đang có xu hướng giảm. Tàu cá vỏ gỗ vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số đội tàu cá nước ta, tuổi thọ lâu, độ an toàn thấp, trang thiết bị máy móc trên tàu thiếu và đồng bộ.
Đặc biệt, các hoạt động đánh bắt cá của chúng tôi đã bị Ủy ban Châu Âu phạt vì đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Đây là một thách thức rất lớn, nhất là nó tác động tiêu cực đến sự phát triển của hoạt động khai thác hải sản và sự phát triển của kinh tế biển nói chung. Điều này đòi hỏi đất nước tôi phải áp dụng những thay đổi chính sách toàn diện và đột phá.
Thời gian qua, các bộ, ngành và 28 tỉnh ven biển đã tập trung thực hiện nhiều giải pháp kiên quyết ngăn chặn một số tàu cá khai thác hải sản trái phép trên vùng biển nước ngoài. Đồng thời, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và phản ứng cảnh báo thẻ vàng của EU bằng thái độ mạnh mẽ, minh bạch. Đặc biệt, cộng đồng doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản, ngành khai thác thủy sản và các sở ngành liên quan của các tỉnh ven biển đã có sự cam kết, đồng thuận cao nhằm ngăn chặn tình trạng khai thác thủy sản trái phép ở vùng biển nước ngoài. Những hành động này đã được Ủy ban châu Âu đánh giá cao và ghi nhận những nỗ lực to lớn của Việt Nam trong việc đẩy lùi và chấm dứt tình trạng đánh bắt bất hợp pháp và không theo quy định, đặc biệt là với sự quan tâm, chỉ đạo đặc biệt của Ban Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành.
Đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản, hạn chế cơ bản nhất là quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, phân tán, khó kiểm soát môi trường và dịch bệnh; cơ sở hạ tầng vùng nuôi chưa đồng bộ, vẫn chủ yếu sử dụng hệ thống thủy lợi nông nghiệp, chưa hình thành được hệ thống “nuôi trồng thủy sản” hoàn chỉnh, độc lập; chủ động thu mua giống thủy sản, thức ăn hoàn toàn sạch bệnh; còn trông chờ vào các liên doanh, liên kết hoặc công ty 100% vốn nước ngoài. Giá thành sản xuất thủy sản của Việt Nam vẫn cao hơn đáng kể so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cũng đang tác động tiêu cực đến cơ cấu diện tích, cây trồng và năng suất nuôi trồng thủy sản. Sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa ngành này với các ngành khác về sử dụng nguồn lực tiếp tục xuất hiện, cản trở hoạt động nuôi trồng thủy sản phát triển.
Trong lĩnh vực chế biến thủy sản, hạn chế, khó khăn chủ yếu là chưa xây dựng được thương hiệu sản phẩm quốc gia, chỉ dẫn địa lý các sản phẩm chủ lực, chưa hình thành được nhiều chuỗi sản xuất bền vững; tỷ trọng giá trị- sản phẩm chế biến tăng thêm còn tương đối thấp, chủ yếu ở dạng đông lạnh, chiếm thị phần hơn 70% trong tổng cơ cấu sản phẩm tiêu dùng; cơ cấu thị trường chưa hợp lý, vẫn bị phân khúc thị trường truyền thống chi phối.
Đối với hoạt động xuất khẩu thủy sản, các rào cản như thuế chống bán phá giá tôm, cá tra vào thị trường Mỹ chưa có dấu hiệu chấm dứt trong vòng 5 năm tới. Đồng thời, Việt Nam vẫn đang nỗ lực xin EC gỡ thẻ vàng IUU nên các ưu đãi của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) về thuế quan và tiếp cận thị trường vẫn chưa phát huy hết tác dụng. Hỗ trợ hiệu quả xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường EU.
Đối với thị trường Trung Quốc, mặc dù dự báo nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Trung Quốc tăng nhưng thị trường này sẽ tăng cường kiểm tra thủy sản nhập khẩu để nâng cao chất lượng sản phẩm nhập khẩu. Đây cũng là xu hướng tại nhiều thị trường nhập khẩu khi người tiêu dùng ngày càng quan tâm hơn đến chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm và quan tâm hơn đến tình trạng tồn dư hóa chất, kháng sinh trong sản phẩm.
Ngoài ra, các dự báo về thị trường chưa đáp ứng yêu cầu thực tế sản xuất. Chi phí vận chuyển nguyên liệu, chi phí giao hàng còn cao khiến giá xuất khẩu một số mặt hàng thủy sản của Việt Nam vẫn cao hơn các nước trong khu vực từ 10-15%, trong khi áp lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng gay gắt.
Nội dung bài viết:
Bình luận