Lịch sử phát triển của Triết học là lịch sử đấu tranh giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. Hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật cổ đại, điển hình là trường phái Âm Dương- Ngũ Hành. Sau đây là một số thông tin để các bạn sinh viên có thể bổ sung vào Bài tiểu luận về triết lý âm dương.

1. Khái niệm âm dương
Âm và Dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết. Là hai khái niệm để chỉ hai thực thể đối lập ban đầu tạo nên toàn bộ vũ trụ, mâu thuẫn thống nhất, trong dương có mầm mống của âm và ngược lại. Và mọi tai họa trong vũ trụ xảy ra cũng là do không điều hòa được hai lực lượng ấy.
Âm thể hiện cho những gì yếu đuối nhỏ bé, tối tăm, thụ động, nữ tính, mềm mại … đối lập nó là dương thể hiện sự mạnh mẽ, ánh sáng, chủ động, nam tính, cứng rắn … Triết lý giải thích vũ trụ dựa trên âm và dương được gọi là triết lý âm dương.
2. Nguồn gốc của âm dương
Âm dương là hai khái niệm được hình thành cách đây rất lâu. Lý luận về Âm-Dương được viết thành văn lần đầu tiên xuất hiện trong sách “Quốc ngữ”. Tài liệu này mô tả Âm-Dương đại biểu cho hai dạng vật chất tồn tại phổ biến trong vũ trụ, một dạng có dương tính, tích cực, nhiệt liệt, cứng cỏi và một dạng có âm tính, tiêu cực, lạnh nhạt, nhu nhược… Hai thế lực âm và dương tác động lẫn nhau tạo nên tất cả vũ trụ. Sách “Quốc ngữ” nói rằng “khí của trời đất thì không sai thứ tự, nếu mà sai thứ tự thì dân sẽ loạn, dương mà bị đè bên dưới không lên được, âm mà bị bức bách không bốc lên được thì có động đất”.
Lão Tử (khoảng thế kỷ V – VI trước CN) cũng đề cập đến khái niệm Âm-Dương. Ông nói: “Trong vạn vật, không có vật nào mà không cõng âm và bồng dương”, ông không những chỉ tìm hiểu quy luật biến hoá âm dương của trời đất mà còn muốn khẳng định trong mỗi sự vật đều chứa đựng thuộc tính mâu thuẫn, đó là Âm-Dương.
Nói về nguồn gốc của âm dương và triết lý âm dương, theo rất nhiều người như Khổng An Quốc và Lưu Hâm ( nhà Hán) cho rằng Phục Hy là người có công sáng tạo. Tương truyền, Phục Hy (2852 trước CN) đi chơi ở sông Hoàng Hà nhìn thấy bức đồ bình trên lưng con Long Mã (con vật tưởng tượng mình ngựa đầu rồng) mà hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ, Phục Hy mới đem lẽ đó vạch thành nét làm ra Hà Đồ. (Tiểu luận: Âm dương gia và sự ảnh hưởng đến đời sống)
Lại có một số tài liệu cho rằng đó là công lao của “ âm dương gia”, một giáo phái của Trung Quốc.
Nhưng Phục Hy chỉ là nhân vật huyền thoại, không có thực còn âm dương gia chỉ có công áp dụng âm dương để giải thích địa lí- lịch sử, và phái này hình thành vào thế kỉ thứ ba nên không thể sáng tạo âm dương. Vì vậy cả hai giả thuyết này đều không có cơ sở khoa học.
Các nghiên cứu khoa học liên ngành của Việt Nam và Trung Quốc đã kết luận “ khái niệm âm dương có nguồn gốc phương Nam” ( “ phương nam” ở đây bao gồm vùng nam Trung Hoa từ sông Dương Tử trở xuống và vùng Việt Nam). Trong quá trình phát triển, nước Trung Hoa đã trải qua hai thời kì: thời kì “ Đông tiến”, và thời kỳ “ Nam tiến”. Trong quá trình “ Nam tiến”, người Hán đã tiếp thu triết lý âm dương của các cư dân phương nam, rồi phát triển, hệ thống hóa triết lý đó bằng khả năng phân tích của người du mục làm cho triết lý âm dương đạt đến hoàn thiện và mang ảnh hưởng của nó tác động trở lại cư dân phương nam.
Cư dân phương nam sinh sống bằng nông nghiệp nên quan tâm số một của họ là sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người. Sinh sản của con người thì do hai yếu tố: cha và mẹ, nữ và nam; còn sự sinh sôi nảy nở của hoa màu thì do đất và trời – “đất sinh, trời dưỡng”. Chính vì thế mà hai cặp “mẹ-cha”, “đất-trời” là sự khái quát đầu tiên trên con đường dẫn đến triết lý âm dương. Chính từ quan niệm âm dương với hai cặp “mẹ-cha” và “đất-trời” này, người ta đã mở rộng ra nhiều cặp đối lập phổ biến khác. Đến lượt mình, các cặp này lại là cơ sở để suy ra vô số các cặp mới.
3. Các quy luật của triết lý âm và dương
Tất cả các đặc điểm của triết lý âm dương đều tuân theo hai quy luật cơ bản. Đó là quy luật về bản chất của các thành tố và quy luật về quan hệ giữa các thành tố.
3.1. Quy luật về bản chất của các thành tố của triết lý âm dương là:
Không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương
Trong âm có dương, trong dương có âm.
Quy luật này cho thấy việc xác định một vật là âm hay dương chỉ là tương đối, trong sự so sánh với một vật khác. Ví dụ về trong âm có dương: đất lạnh nên thuộc âm nhưng càng đi sâu xuống lòng đất thì càng nóng; về trong dương có âm: nắng nóng thuộc dương, nhưng nắng nhiều sẽ có mưa nhiều (hơi nước bay lên) làm nên mưa lạnh thuộc âm. Trong mỗi người đều tiềm ẩn chất khác giới, nên giới tính có thể biến đổi bằng cơ chế thức ăn hoặc giải phẫu. Chính vì thế mà việc xác định tính âm dương của các cặp đối lập có sẵn thường dễ dàng. Nhưng đối với các vật đơn lẻ thì khó khăn hơn nên có hai hệ quả để giúp cho việc xác định tính âm dương của một đối tượng:
- Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì trước hết phải xác định được đối tượng so sánh.
Ví dụ: Nam so với nữ thì mạnh mẽ (dương) nhưng so với hùm beo thì lại yếu đuối (âm), màu trắng so với màu đỏ thì là âm, nhưng so với màu đen thì là dương… Ta có thể xác lập được mức độ âm dương cho nhiều hệ; ví dụ, về màu sắc thì đi từ âm đến dương ta có đen-trắng-xanh-vàng-đỏ (đất “đen” sinh ra mầm lá “trắng”, lớn lên thì chuyển thành “xanh”, lâu dần chuyển thành lá “vàng” và cuối cùng thành “đỏ”). Tuy nhiên không phải xác định được đối tượng rồi là xác định được tính chất âm dương của chúng. (Tiểu luận: Âm dương gia và sự ảnh hưởng đến đời sống)
- Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì sau khi xác định được đối tượng so sánh còn phải xác định được cơ sở so sánh.
Đối với cùng cùng một cặp hai vật, các cơ sở so sánh khác nhau sẽ cho ra những kết quả khác nhau. Ví dụ: nước so với đất thì, về độ cứng thì nước là âm, đất là dương, nhưng về độ linh động thì nước là dương, đất là âm; nữ so với nam, xét về giới tính là âm, nhưng xét về tính cách có thể là dương…
3.2. Quy luật về quan hệ giữa các thành tố của triết lý âm dương là:
Âm dương gắn bó mật thiết với nhau, vận động và chuyển hóa cho nhau.
Âm phát triển đến cùng cực thì chuyển thành dương, dương phát triển đến cùng cực thì chuyển thành âm.
Ngày và đêm, tối và sáng, mưa và nắng, nóng và lạnh,… luôn chuyển hóa cho nhau. Cây màu xanh từ đất “đen”, sau khi lớn chín “vàng” rồi hóa “đỏ” và cuối cùng lại rụng xuống và thối rữa để trở lại màu “đen” của đất. Từ nước lạnh (âm) nếu được đun nóng đến cùng cực thì bốc hơi lên trời (thành dương), và ngược lại, nếu được làm lạnh đến cùng cực thì nó sẽ thành nước đá (thành dương).
Âm và Dương không chỉ phản ánh hai loại yếu tố (lực lượng) mà còn phản ánh hai loại khuynh hướng đối lập, không tách rời nhau, ôm lấy nhau xoắn vào nhau; trong âm có dương và trong dương có âm. Đó cũng là sự thống nhất giữa cái động và cái tĩnh; trong động có tĩnh, trong tĩnh có động… nghĩa là trong âm và dương đều có tĩnh và có động, chỉ khác ở chỗ, bản tính của âm thì hiếu tĩnh, còn bản tính của dương thì hiếu động…
Do thống nhất, giao cảm với nhau mà âm và dương có động, mà động thì sinh ra biến; biến tới cùng thì hóa để được thông; có thông thì mới tồn vĩnh cữu được. Chính sự thống nhất và tác động của hai lực lượng , khuynh hướng đối lập âm và dương tạo ra sự sinh thành biến hóa của vạn vật; khi vạn vật biến hóa tới cùng thì quay trở lại cái ban đầu.
Biểu tượng Thái cực (hình thành trong đạo giáo vào đầu công nguyên) phản ánh đầy đủ hai qui luật về bản chất hòa quyện và quan hệ chuyển hóa của triết lí âm dương;- vòng tròn khép kín: trong đó được chia thành nửa đen nửa trắng, âm màu đen nặng hướng xuống, dương màu sáng nhẹ nổi lên, trong nửa đen có chấm trắng, trong nửa trắng có chấm đen; phần trắng là dương, phần đen là âm, chúng nói lên âm và dương thống nhất: trong âm có dương và trong dương có âm, trong thái âm có thiếu dương, trong thái dương có thiếu âm. Thiếu dương trong thái âm phát triển đến cùng thì có sự chuyển hóa thành thiếu âm trong thái dương và ngược lai. Cứ vậy vạn vật thay đổi, biến hóa không ngừng.
Nội dung bài viết:
Bình luận