2. Tóm tắt nội dung
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, do đó sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đó cũng có những điểm khác so với trước những năm 1986, do nhận thức và vận dụng sai lầm lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến những thất bại to lớn như sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và các nước Đông Âu, còn ở Việt nam do nhận thức và vận dụng sai lầm đã dẫn đến tụt hậu về kinh tế và khủng hoảng về chính trị. Thực tiễn hơn 20 năm đổi mớỉ nước ta mang lại nhiều bằng chứng xác nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên. Đại hội đại biểu lần thứ VIII của đảng đã khẳng định xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và chính sách đối nội đối ngoại. Không có sựđổi mới đó thì không có sự đổi mới khác. Ngày nay, sinh viên chúng em cần phải học hành thật tốt để tiếp bước xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh. Để làm được điều đó chúng em cần có phương pháp học tập tốt bằng việc vận dụng quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử cụ thể trong quá trình học tập của bản I : QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN 1. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn biện chứng duy vật là phương pháp triết học duy vật biện chứng và các khoa học nói chung. Theo “Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Là cơ sở của nhận thức lí luận tự giác, phép biện chứng duy vật là phương pháp dùng để nghiên cứu toàn diện và sâu sắc những mâu thuẫn trong sự phát triển của hiện thực, đưa lại chìa khóa để nghiên cứu tổng thể những quá trình phức tạp của tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy, phép biện chứng duy vật được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực và có vai trò quyết định trong sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật không chỉ đưa ra hướng nghiên cứu chung, đưa ra các nguyên tắc tiếp cận sự vật, hiện tượng nghiên cứu mà đồng thời còn là điểm xuất phát để đánh giá những kết quả đạt được. Cơ sở lí luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến– một trong hai nguyên lí cơ bản của phép duy vật biện chứng. Đây là một phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự quy định, tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới khách học Mác khẳng định: Cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là thuộc tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự tượng dù đa dạng và khác nhau đến mấy thì chúng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhât là vật chất mà thôi. Ngay bản thân ý thức vốn không phải là vật chất nhưng cũng chỉ là sự phát triển đến đỉnh cao của một thuộc một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con người, nội dung của ý thức có mối liên hệ chặt chẽ với thế giới bên triết học Mác, mối liên hệ giũa các sự vật hiện tượng là khách quan vốn có của bản thân chúng, đồng thời mối liên hệ còn mang tính phổ biến và tính phổ biến ấy được thể hiện ở những vấn đề sau đây: Xét về mặt không gian, mỗi sự vật hiện tượng là một chỉnh thể riêng biệt, song chúng tồn tại không phải trong trạng thái biệt lập tách rời tuyệt đối với các sự vật hiện tượng khác. Ngược lại, trong sự tồn tại của mình thì chúng tác động lẫn nhau và nhận sự tác động của các sự vật hiện tượng khác. Chúng vừa phụ thuộc nhau, chế ước nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển. Đó chính là hai mặt của quá trình tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Ph.Ănghen đã khẳng định: “Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể liên hệ khăng khít với nhau và việc các vật thể ấy có mối liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động qua lại lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận đời sống xã hội ngày nay không có một quốc gia, dân tộc nào mà không có mối quan hệ, liên hệ với quốc gia, dân tộc khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Đây chính là sự tồn tại, phát triển cho mỗi quốc gia, dân tộc. Trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa mọi mặt của đời sống xã hội. Các quốc gia dân tộc ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, tác động lẫn nhau trên con đường phát triển của về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của sự vật hiện tượng thì mỗi sự vật, hiện tượng thì mỗi sự vật, hiện tượng đều được tạo thành bởi nhiều nhân tố, nhiều bộ phận khác nhau và các nhân tố, bộ phận đó không tồn tại riêng lẻ mà chúng được tổ chức sắp xếp theo một logic nhất định, trật tự nhất định để tạo thành chỉnh thể. Mỗi biện pháp, yếu tố trong đó mà có vai trò vị trí riêng của mình, lại vừa tạo điều kiện cho các bộ phận, yếu tố khác. Nghĩa là giữa chúng có sự ảnh hưởng, ràng buộc tác động lẫn nhau, sự biến đổi bộ phận nào đó trong cấu trúc của sự vật, hiện tượng sẽ ảnh hưởng đến bộ phận khác và đối với cả chỉnh thể sự vật, hiện về mặt thời gian, mỗi một sự vật hiện tượng nói riêng và cả thế giới nói chung trong sự tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua các giai đoạn, các thời kì khác nhau và các giai đoạn đó không tách rời nhau, có liên hệ làm tiền đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn này làm mở đầu cho giai đoạn khác tiếp theo. Điều này thể hiện rõ trong mối liên hệ giữa quá khứ – hiện tại – tương lai ( hiện tại chẳng qua là bước tiếp theo của quá khứ và là bàn đạp cho tương điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến vốn có của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình mà nó còn nêu rõ tính phong phú, đa dạng và phức tạp của mối liên hệ qua lại đó. Khi nghiên cứu hiện thức khách quan có thể phân chia mối liên hệ thành từng loại khác nhau tùy tính chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông hay sâu, vai trò trực tiếp hay gián tiếp… khái quát lại có những mối liên hệ sau đây: mối liên hệ bên trong – bên ngoài, chủ yếu – thứ yếu, chung – riêng, trực tiếp – gián tiếp, bản chất – không bản chất, ngãu nhiên – tất nhiên. Trong đó có những mỗi liên hệ bên trong, trực tiếp, chủ yếu, bản chất và tất nhiên bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng, quyêt định cho sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Triết học Mác xít đồng thời cũng thừa nhận rằng các mối liên hệ khác nhau có khả năng chuyển hóa cho nhau, thay đổi vị trí của nhau và điều đó diễn ra có thể là sự thay đổi phạm vi bao quát sự vật, hiện tượng hoặc có thể do kết quả vận động khách quan của sự vật hiện tượng đó. Từ việc nghiên cứu nguyên lí về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng chúng ta rút ra quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự vật hiện tượng cũng như trong hoạt động thực mặt nhận thức, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong mối liên hệ tác động qua lại với những sự vật, hiện tượng khác và cần phải phát hiện ra nhũng mỗi liên hệ giữa các bộ phận, yếu tố, các thuộc tính, các giai đoạn khác nhau của bản thân sự vật. Lênin đã khẳng định: “Muốn thực sự hiểu được sự vật,cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt của mối liên hệ và quan hệ của sự vật đó”. Để nhận thức đúng được sự vật, hiện tượng cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn, ứng với mỗi thời kỳ, giai đoạn, thế hệ thì con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được số lượng hữu hạn các mối liên hệ. Vì vậy tri thức về các sự vật, hiện tượng chỉ là tương đối, không đầy đủ và cần phải được hỏi chúng ta phải phát hiện ra không chỉ là mối liên hệ của nó mà còn phải biết xác định phân loại tính chất, vai trò, vị trí của mỗi loại liên hệ đối với sự phát triển của sự vật. Cần chống lại khuynh hướng sai lầm phiến diện một chiều , cũng như đánh giá ngang bằng vị trí của các loại quan hệ. 2. Yêu cầu của quan điểm toàn mặt thực tiễn, quan điểm toàn diện đòi hỏi để cải tạo sự vật, hiện tượng cần làm thay đổi mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng cũng như mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Muốn vậy, cần phải xác định, sử dụng đồng bộ các phương pháp, các biện pháp, phương tiện để giải quyết sự vật. Mặt khác, quan điểm toàn diện đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn cần phải kết hợp chính sách dàn đều và chính sách có trọng tâm, trọng điểm. Vừa chú ý giải quyết về mặt tổng thể vừa biết lựa chọn những vấn đề trọng tâm để tập trung giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc giải quyết những vấn đề điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng đắn và đầy đủ tri thức của triết họ, chúng ta cần phải tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức khoa học khác với tri thức cuộc sống và ngược lại, vì tri thức triết học được khái quát từ các tri thức khoa học khác và hoạt động của con thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên… để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không những chú ý tới mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các chất khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước, mặt khác ta phải biết tranh thủ thời có, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa sự vật hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển, nên trong nhận thức và hoạt động của bản thân chúng ta phải có quan điểm phát triển. Điều đó có nghĩa là khi xem xét bất kì sự vật hiện tượng nào cũng phải đặt nó trong sự vận động, sự phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hóa Vận dụng quan điểm toàn diện vào quá trình học của sinh nay hầu hết sinh viên đều quan tâm đến các môn chuyên ngành, những môn có ảnh hưởng trực tiếp đến công việc sau này của các bạn. Đó là quan niệm rất sai lầm, hiện tại chúng ta chưa thấy hết tác động của các môn cơ sở đến ngành học nhưng theo triết học Mác–Lê thì trong sự tồn tại của thế giới quanh ta, mọi sự vật và hiện tượng đều có mối liên hệ và tác động qua lại với nhau chứ không tách rời nhau, cô lập nhau. Ví dụ cơ bản nhất là nếu chúng ta không biết đến tích phân thì chúng ta không thể học được các môn chuyên ngành tính tải trọng hay tính diện tích được…… Trong các môn học của sinh viên trên giảng đường đại học chúng đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, không thể ngẫu nhiên mà nhà trường lại xếp chương trình học từng ngành như thế, cái gì cũng có lý do của nó. Tại sao ko dạy môn Đại số sau môn Cơ học, môn Vật lý học sau các môn vì lý do đó quan điểm toàn diện có vai trò hết sức quan trọng với sinh viên mà dường như chúng ta quá phớt lờ qua nó. Chính vì lý do đó mà nhà trường đã đưa vào giảng dạy môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin , giúp cho sinh viên hiểu không chỉ là các quy luật, nguyên lý cơ bản mà còn giúp sinh viên hiểu cách học như thế naò là đúng để có đủ kiến thức cống hiến cho xã hội. Bên cạnh những môn khoa học thì còn những môn giúp sinh viên biết lịch sử đất nước, đường lối đấu tranh của Đảng qua các môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Con người luôn có 2 mặt là tài năng vào đạo đức, “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó “. Mặt khác, rèn luyện thể lực, tập thể dục cũng góp phần không nhỏ vào công việc của chúng ta sau này. Đặc biệt chúng em là sinh viên trường Đại học GTVT TP.Hồ Chí Minh thì chúng em phải có cơ thể rắn chắc để có thể làm ở những môi trường khắc nghiệt sau này. Chính vì thế hiểu và vận dụng quan điểm toàn diện vào quá trình học tập không chỉ giúp chúng em học tốt môn học mà còn giúp sinh viên hiểu rằng ngoài việc học tập toàn diện các môn cơ sở và chuyên ngành để hỗ trợ cho nhau thì còn giúp sinh viên đi đúng hướng, trở thành con người đầy đủ đức tài cống hiến cho xã hội. II: QUAN ĐIỂM PHÁT dung cơ bản của nguyên lý. Quan điểm siêu hình về sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi thuần túy về lượng không có sự thay đổi về chất. Sự phát triển chỉ thay đổi số lượng của từng loại đang có, không có sự nảy sinh loại mới với những qui định mới về chất, có thay đổi về chất chăng nữa thì đó cũng chỉ diễn ra trong vòng một vòng tròn khép kín. Sự phát triển như một quá trình liên tục, không có những bước quanh co phức tạp. Quan điểm biện chứng về sự phát triển là một phạm trụ triết học dùng để khái quát quá trình tiến lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Tính khách quan của sự vật phát triển: nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự vật qui định. Phát triển là tự thân của mọi sự vật và hiện tượng. Do vậy, phát triển là một quá trình khách quan, độc lập với ý thức con phổ biến của sự vật, sự phát triển khẳng định tính phổ biến với nghĩa là sự phát triển ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên đến xã hội và tư duy, từ hiện thực đến những khái niệm những phạm trù phản ánh hiện thực đó. Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, sự phát triển diễn ra theo đường xoắn ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển dường như có sự quay lại điểm xuất phát nhưng trên một cơ sở cao hơn. Tính phong phú đa dạng của sự phát triển.Tùy vào hình thức tồn tại cụ thể của dạng vật chất sự phát triển sẽ được hiện thực khác hạn, ở thế giới hữu cơ phát triển thể hiện sự tăng cường khả năng thích của cơ thể trước mọi môi trường. Ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng hoàn thiện hơn.Trong xã hội, sự phát triển thể hiện ở khả năng chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội nhằm phát triển con điểm duy vật biện chứng về sự phát triển cho ta chìa khóa “sự vận động” của tất cả mọi cái đang tồn tại chỉ nó mới tạo ra chìa khóa của những bước nhảy vọt của “chuyển hóa các mặt đối lập” của sự “tiêu diệt cái cũ” và sự nảy sinh cái mới. Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan tính phổ biến của sự lien hệ trong sự vật hiện tượng, cái quy tắc mà nó còn nêu rõ tính đa dạng của sự lien hệ qua lại cái mối liên hệ bên trong và mối bên ngoài có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực riêng biệt của thế giới, có mối liên hệ trực tiếp - gián tiếp mà trong đó sự tác động qua lại được thể hiện một số khâu trung giang, có mối liên hệ bản chất, có mối liện hệ tất nhiên - ngẫu nhiên. Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa dạng của sự tồn tại, sự vận động và phát triển của chính các sự vận động và phát triển của các sự vật hiện liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sư vật. Mối liên hệ bên ngoài la mối liên hệ giửa các sự vật các hiện tượng khác nhau, nói chung nó không có ý nghĩa quyết định. Hơn nữa nó thường là những hình thức đặc thù của sự biểu hiện những mối liên hệ tương dụng quan điểm phát triển vào trong quá trình học tập. Mọi sự vật - hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển mang tính khách quan-phổ biến, là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ thống vật chất do việc giải quyết mâu thuẫn thực hiện bước nhảy về vật chất gây ra, và hướng theo xu hướng phủ định của phủ định. Nắm vững nội dung nguyên lí về sự phát triển chúng ta có thể xây dựng quan điểm phát triển trong quá trình học quá trình học tập em luôn xác định mục đích của bản thân để từ đó tìm ra được phương pháp học tập hiệu quả và phù hợp cho mình. Em nhận thấy xã hội không ngừng phát triển đã đi từ trình độ thấp của buổi đầu sơ khai cho tới trình độ cao như bây giờ và tương lai sẽ còn cao hơn nữa vì vậy con người cần phải bắt kịp sự vận động phát triển đó để tồn tại. Trong học tập cũng vậy muốn trình độ ngày được nâng cao trước hết ta phải nắm vững những cái cơ bản và từ những cái cơ bản đó tìm hiểu và nâng cao nó lên, biết được sự ra đời cũng như sự phát triển của những tri thức mà em đang tìm hiểu (toán học, vật lí, hóa học,…. đã ra đời như thế nào và nó sẽ phát triển ra sao ở tương lai ) trong quá trình học cần đặt câu hỏi va giải quyết câu hỏi minh đặt ra để có thể học tốt hơn. Sinh viên Việt Nam nói chung và riêng bản thân em nói riêng đã học qua loa, đối phó với những môn đại cương và chỉ chú tâm vào các môn chuyên ngành. Phát triển là khuynh hướng chung của mỗi sinh viên, song mỗi sinh viên lại có quá trình phát triển khác nhau, đồng thời trong quá trình học tập của mỗi sinh viên lại chịu tác động của nhiều nhân tố, điều kiện, và hoàn cảnh khác nhau, làm cho quá trình phát trình phát triển của mỗi sinh viên cũng khác nhau. Sau khi nắm được quan điểm phát triển của Mác-Lênin giúp bản thân em tránh được quan điểm trì trệ, có suy nghĩ đúng đắng hơn về sự phát triển của xã hội, để từ đó bản thân rút ra được cách học đúng đắn nhất, phù hợp nhất với sự phát triển của xã hội, giúp em hiểu được tầm quan trọng của những môn khoa học đại cương để có biện pháp học tập tối ưu nhất, biết tôn trọng những tri thức khoa học trong việc học tập, và thấy được sự phát triển của những tri thúc ấy trong tương lai muốn nắm bắt được kiến thức trước hết phải tôn trọng kiến thức, phải cần cù xuyên năng, phải biết áp dụng tri thức đó vào cuộc sống, phải bỏ thời gian để nghiên cứu tìm hiểu về tri thức ấy “đừng nhặt con ốc vàng, sóng xô vào bãi cát, vì những điều dễ dàng, chắc chắn ko bền lâu”. Như vậy với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong học tập và thực tiễn cuộc sống. Ph. Ăngghen viết “phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, và sự tiêu vong của chúng”. III : QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ THỂ Quan điểm lịch sử - cụ thể hình thành dựa trên sơ sở nguyên lý về mối lien hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát lý về mối liên hệ phổ biến và phép biện chứng duy vật. Nội dung nguyên lý: Sự vật, hiện tượng của thế giới tự nhiên, Xã hội, tư duy đều nằm trong mối liên hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc nương tựa, quy định lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau phát triển. Mối liên hệ này chẳng những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy mà còn diễn ra ở các mặt, các yếu tố, các quá trình ở mỗi sự vật hiện tượng. Mối liên hệ của sự vật, hiện tượng trong thế giới đa dạng, nhiều vẻ có mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ bẩn chất và mối liên hệ không bản chất, mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ riêng bao quát một lĩnh lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều không ngừng biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, cái mới nối tiếp cái cũ, giai đoạn sau nối tiếp giai đoạn trước, tạo thành quá trình tiến lên mãi mãi, quá trình diễn ra theo hình xoắn ốc. Phát triển là khuynh hướng chung thống trị thế gốc nguyên nhân của sự phát triển là quá trình giải quyết mâu thuẫn liên tục trong bản thân sự vật. Cách thức của sự phát triển là thay đổi dần về lượng dẫn dến sự thay đổi về chất và ngược lại. Khuynh hướng của sự phát triển là đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện, sự phát triển chỉ bộc lộ ra khi so sánh các hình thức tồn tại của sự vật ở các thời điển khác nhau trên trục thời gian quá khư hiện tại và tương lai. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể Quan điểm có 3 yêu cầu: + Khi xem xét cải biến sự vật phải đặt nó trong điều kiện thời gian không gian cụ thể, phân tích xem những điều kiện không gian thời gian ấy có ảnh hưởng như thế nào đến tính chất, đặt điểm của sự vật. + Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điển khoa học nào đó, cần phải phân tích nguồn gốc xuất sứ, hoàn cảnh nảy sinh lý luận đó. Có như vậy mới đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý luận đó. + Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến điều kiện cụ thể của nó khi được vận điểm lịch sử là như thế người nghĩ đó là quan điểm cho rằng khi xem xét bất kỳ chuyện gì chúng ta đều phải xét tới hoàn cảnh lịch sử mà chuyện đó diễn ra. Tuy nhiên phép biện chứng của Hegel nói rằng “Trên thế giới này đều luôn luôn vận động và phát triển. Trong quá trình vận động và phát triển đó thì ở giai đoạn nhất định, tương ứng với một trình độ nhất định, hết giai đoạn đó thì các khái niện phạm trù, quy luật đặt thù của giai đoạn đó sẽ tiêu vong, thay thế bằng các khái niệm, phạm trù, quy luật khác, đặt trưng cho giai đoạn mới.” Cái đó chính là quan điểm lịch sử. Quan điểm lịch sử cho rằng: ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định, trong những điều kiện nhất định, thì các sự vật, hiện tượng có những thuộc tính phạm trù, khái niệm quy luật nhất định, tương ứng với điều kiện đó, giai đoạn đó. Vậy mỗi khi xét một hiện tượng nào đó, ta phải xem xét nó mang tính vĩnh viễn hay lịch sử và nếu nó mang tính lịch sử thì đâu là điều kiện phát sinh ra nó. Như thế nào là quan điểm cụ theo Hegel mọi sư vật phát triển dần dần từ thấp đến cao, từ đơn giản tới phức tạp, từ trừu tượng đến cụ thể. Vậy “cụ thể ở đây là cái đối lập với trừu Hegel thì “trừu tượng” nghĩa là sự vật đang ở trình độ thấp, còn rất giản đơn, thiếu nội tính, sự vật càng phát triển thì càng có thêm nhiều nội dung ,thuộc tính càng phong phú hơn và Hegel gọi là càng cụ thể hơn. Như thế khi đề cập đến bất kì vấn đề gì ta cũng cần tránh lối nói chung chung ,trừu tượng, mà cần nói rõ ràng, cụ thể, tức là phải chỉ ra các thuộc tính đặc thù của nó. Tổng kết lại: Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sư vật phải chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường hoàn cảnh cụ thể trong đó có sự vật sinh ra tồn tại và phát dụng quan điểm lịch sử - cụ thể vào sinh viên. Là sinh viên chúng ta phải xác định học tập là mục tiêu chính và phải có động cơ, thái độ đúng đắn thì mới có kết quả cao. Việc vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể vào trong học tập có vai trò rất quan trọng là phương pháp học mà mỗi sinh viên cần phải biết áp dụng. + Học tập là suốt đời, học bằng cái gì? Mắt, tai, tay , miệng, nên học trước cái gì, học sau cái gì và cái gì nên học và cái gì không nên học. + Người học phải biết kiêm tốn, phải biết học hỏi, học ở mọi người. + Nhiều thứ con người muốn học, nhưng muốn hiểu kỷ và sâu sắc phải tốn thời gian, kiên trì kiên nhẫn. + Học phải đi đôi với hành thì hiệu quả mới cao, tuy nhiên chỉ chăm học thôi chưa đủ chúng ta phải rèn luyện cả về phẩm chất, đạo đức như Bác đã từng dạy “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”. Tài và đức là những phẩm chất khác nhau nhưng luôn gắn bó mật thiết và không thể tách rời. Có tài mà không có đức là người vô dụng bởi tài năng đó không phục cụ cái chung mà chỉ mưu cầu lợi ích cho một cá nhân thì cũng trở nên vô giá trị. Nhưng nếu chỉ có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó bởi có đức có khát vọng hành động vì lợi ích của mọi người nhưng không có kiến thức, năng lực kém thì những ý định tốt cũng khó trở thành hiện ta hiện nay là những sinh viên, là người đang trong quá trình phát triển về mọi mặt, cả về thể lực và trí lực, trí thức và trí tuệ, nhân cách cho nên thời kỳ này phải tranh thủ để hoàn thiện bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất, năng lực, cả đức và tài, học hỏi bạn bè…vv. Để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục của tương lai. KẾT LUẬN Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm rất thấp, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc, còn ở tình trạng phổ biến của tái sản xuất giản đơn, lực lượng sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp, quan hệ sản xuất yếu kém… Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp và để đảm bảo mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, đòi hỏi chúng ta phải có chủ trương đổi mới toàn diện trên mọi mặt của đời sống xã hội, phải kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo mọi điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển, có như vậy mới tạo ra nhiều của cải vật chất tạo tiền đề cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội. Và nhân tố quan trọng để thực hiện điều đó chính là tầng lớp sinh viên học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường bây giờ. Để trở thành một người có ích, chủ nhân tương lai của đất nước thì sinh viên phải có phương pháp học tập đúng đắn: cần cù chịu khó, siêng năng, năng thời phải biết qúy trọng nhớ ơn nhưng người đã tạo tiền đề cho hôm nay, tự hào vì chúng ta là người việt nam. Học tập tấm gương đạo đức Bác hồ, cụ thể là qua các môn học : tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam. Làm được như vậy chúng ta sẽ đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu như lời bác hồ dạy “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần vào công học tập của các LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS. Nguyễn Viết Thông, năm xuất bản 2011, Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Bình luận