Các bài tiểu luận triết học về kinh tế

Triết học là hạt nhân lý luận thế giới quan của con người. Thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định quan điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, nghệ thuật, đạo đức, v.v. như thế ấy. Do vậy, triết học khoa học, đúng đắn có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển của xã hội nói chung, của kinh tế nói riêng.

Triết học kinh tế là một nhánh triết học quan tâm đến các vấn đề kinh tế như sự lựa chọn duy lý; đánh giá sản lượng kinh tế, các định chế và các tiến trình kinh tế; bản chất của các hiện tượng kinh tế và khả năng hiểu chúng.

Dưới đây là các bài tiểu luận triết học về kinh tế mà tôi sưu tầm được:

Nhận diện và đấu tranh chống âm mưu tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin

Các bài tiểu luận triết học về kinh tế

1. TIỂU LUẬN: NGUYÊN LÝ TRIẾT HỌC ĐỂ PHÂN TÍCH KINH TẾ VIỆT NAM

LỜI MỞ ĐẦU

Kinh tế là ngành không thể thiếu được của mọi quốc gia trên thế giới. Chính vì thế, nó chiếm một vai trò quan trọng trong hệ thống nhà nước của mỗi quốc gia. Không chỉ có vậy, lĩnh vực kinh tế còn ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội như: chính trị, văn hoá, môi trường… Do có vai trò quan trọng như vậy nên mỗi một thay đổi dù lớn hay nhỏ của ngành kinh tế đều ảnh hưởng đến sự phát triển chung của một quốc gia. (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá đang là một đề tài thu hút nhiều sự chú ý và gần đây hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã được thông qua  tạo thêm nhiều cơ hội  cho sự phát triển kinh tế ở nước ta nhưng đồng thời đây cũng là một thách thức lớn đối với nền kinh tế còn đang trong giai đoạn phát triển như nước ta ,vì hiện nay có thể nói công nghệ và kỹ thuật của ta còn đi chậm hơn so với thế giới và chúng ta buộc phải có những đổi mới trong cung cách sản xuất, quản lý , đầu tư đúng hướng …

Bài tiểu luận này đã giúp em học hỏi được rất nhiều trong việc rèn luyện cách viết, cách diễn giải một vấn đề và trau dồi khả năng tư duy. Song do đây là bài tiểu luận đầu tiên cho nên không thể tránh khỏi những sai sót về nội dung cũng như hình thức. Kính mong các thầy cô giáo sửa chữa và góp ý để tiểu luận có thể hoàn thiện hơn.

I- Cơ sở lý luận triết học dùng làm tiền đề lý luận cho đề tài

1 –  Quy luật lượng chất (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Muốn hiểu thấu đáo qui luật lượng- chất thì trước hết phải tìm hiểu xem thế nào là lượng, thế nào là chất. Trong giáo trình triết học Mác- Lênin, khái niệm về chất và lượng được định nghiã như sau:” chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho nó là nó chứ không phải cái khác”. Còn”lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính qui định vốn có của sự vật biểu thị số lượng, qui mô,trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính của nó”.

Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Trong quá trình vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không diễn ra độc lập với nhau. Trái lại, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kì sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Vượt qua giới hạn đó sẽ làm cho vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời.

Khuôn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật được gọi là độ. “Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật .” (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi chất của sự vật được gọi là điểm nút.

Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới. Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Vì vậy, có thể hình dung sự phát triển dưới dạng một đường nút của những quan hệ về độ.

Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Nói cách khác, bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về chất trước đó gây ra.

Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút. Sau khi ra đời, chất mới có thể tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó.

Bởi vì chất và lượng là hai mạt đối lập vốn có trong lòng sự vật hiện tượng. Chất thì tương đối ổn định còn lượng thì thường xuyên biến đổi. Sự thay đổi của lượng đến một lúc nào đó thì đối lập với chất cũ, bị chất cũ kìm hãm, nó đòi hỏi phải phá bỏ độ cũ mở ra một độ mới để mở đường cho lượng thay đổi. Khi chất cũ bị phá bỏ, chất mới được thiết lập lại tạo ra sự thống nhất giữa chất và lượng. (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Quy luật lượng chất được phát biểu như sau: “Bất kì sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng.

Xuất phát từ những điều trên, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải quan tâm đến quá trình tích luỹ về lượng bởi vì không có quá trình này thì không có sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật cũng không thể mất đi, cái mới tiến bộ hơn không thể ra đời thay thế.

Khi chất mới ra đời thì phải biết xác định quy mô tốc độ phát triển mới về lượng cho phù hợp, không được thoả mãn dừng lại.

Phải chống lại quan điểm tả khuynh và hữu khuynh. Tả khuynh là quan điểm coi thường tích luỹ về lượng. Còn hữu khuynh là khi lượng thay đổi đã chín muồi cần phải có sự thay đổi về chất lại không dám thực hiện bước thay đôỉ về chất. Cả hai quan điểm đó đều là quan điểm sai lầm.

2. Nguyên tắc phương pháp luận của mối quan hệ nguyên nhân- Kết quả (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả. Do đó, nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả. Còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện Song không phải mọi sự việc nối tiếp trong thời gian của các hiện tượng đều là biều hiện của mối quan hệ nhân quả.

Trong hiện thực mối liên hệ nhân- quả biểu hiện rất phức tạp. Một kết quả thông thường không phải do một nguyên nhân và một nguyên nhân có thể sản sinh ra nhiều kết quả. Khi các nguyên nhân tác động cùng chiều, cùng hướng, cùng một lúc lên sự vật thì chúng sẽ gây lên ảnh hưởng cùng chiều tới sự hình thành kết quả và ngược lại.

Trong sợi dây chuyền vô tận của sự vận động vật chất, không có hiện tượng nào được coi là nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết quả nào được xem là kết quả cuối cùng. Trong mối quan hệ này, sự vật nào đó được coi là nguyên nhân thì trong sự việc khác, nó lại được coi là kết quả và ngược lại.

Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân. Trái lại, nó tác động lại nguyên nhân theo hai chiều hướng hoặc tích cực hoặc tiêu cực.

Mối liên hệ nhân – quả có tính khách quan. Không có sự vật hiện tượng nào tồn tại mà không có nguyên nhân. Do đó, nhiệm vụ của nhận thức khoa học là phải khám phá ra nguyên nhân. Bởi vì có biết nguyên nhân, chúng ta mới có thể định hướng cho sự phát triển tiếp sau. (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Một sự vật hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Mỗi nguyên nhân có vị trí khác nhau trong việc hình thành kết quả. Vì vậy, ta cần phải phân loại các nguyên nhân đồng thời phải nắm được những nguyên nhân phát triển cùng chiều để tạo ra sức mạnh tổng hợp và hạn chế những nguyên nhân ngược chiều.

Nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng sau khi kết quả xuất hiện thì nó lại tác động trở lại nguyên nhân sinh ra nó. Vì vậy, phải biết khai thác tận dụng các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức để thúc đẩy sự vật phát triển.

II- Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá.

Trên thế giới có rất nhiều tài liệu viết về khái niệm hội nhập kinh tế Quốc tế. Giáo sư về kinh tế học quốc tế thuộc đại học Tổng hợp Giôn Hốp- kin, Oa- sinh- tơn D.C, Giêm Ri- đen đã định nghĩa: “Hội nhập là tự do thương mại, không phải chỉ đơn giản là bản thân thương mại”. Về mặt lý luận, các vấn đề kinh tế không chỉ mang các đặc trưng của kinh tế đơn thuần, mà luôn gắn với một hệ thống của chính trị là nền tảng của tư tưởng của nó. Về mặt thực tiễn, rõ ràng ở quốc gia nào cũng vậy , người ta chỉ chấp nhận hội nhập kinh tế quốc tế một khi lợi ích của quốc gia đó được bảo đảm- Các lợi ích này không chỉ đơn thuần là lợi ích kinh tế. Nó luôn được xác định gồm cả lợi ích chính trị của mỗi quốc gia. Cho nên, bất cứ hiệp định song phương giữa hai quốc gia nào cũng luôn có điều khoản loại trừ các yếu tố gây hại đến an ninh quốc gia mỗi nước. Với cách tiếp cận trên, có thể hiểu hội nhập kinh tế quốc tế, của nước ta hiện nay không chỉ là quá trình gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế mà còn được thể hiện trong bản thân hệ thống chính các thương mại, chính sách phát triển kinh tế đã và đang được Đảng, Nhà nước định hướng.

Những phát kiến về địa lý, những cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, sự phát triển đại công nghiệp, sự phát triển sản xuất nhờ áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, sự mở rộng thị trường quốc tế, mở rộng giao lưu quốc tế đã phá vỡ tính biệt lập, khép kín trong phạm vi quốc gia, mở rộng không gian hoạt động của các quốc gia. Đây chính là tiền đề cho quá trình tích luỹ về lượng để chuẩn bị cho sự thay đổi về chất tới một giới hạn nào đó(độ) thì dẫn đến một bước nhảy về kinh tế là xu thế toàn cầu hoá ra đời. (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Có nhiều nguyên nhân tác động dẫn tới sự hình thành và phát triển xu thế toàn cầu hoá kinh tế, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu là:

-Xu thế toàn cầu hoá kinh tế trước hết bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, từ tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất trên phạm vi quốc gia và quốc tế.

-Xu thế toàn cầu hoá kinh tế chịu sự tác động trực tiếp rất mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Sự phát triển của các công nghệ cao( công nghệ sinh học, công nghệ viễn thông…) đã làm thay đổi về chất lực lượng sản xuất của loài người, đã đưa loài người từ văn minh công nghiệp lên văn minh tin học, đã tạo thành kinh tế tri thức, kĩ thuật số, hình thành mạng máy tính toàn cầu( Internet), phá vỡ hàng rào ngăn cách về không gian và thời gian giữa các quốc gia trên thế giới và thúc đẩy các nước quan hệ, hợp tác với nhau.

– Sự phát triển và bành trướng của các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia,lực lượng chi phối toàn cầu hoá.

Chính những nguyên nhân trên đã đặt các quốc gia, phát triển cũng như đang phát triển, đứng trước thách thức về tụt hậu. Do đó các quốc gia đều đặt ưu tiên cho phát triển kinh tế. Trong đó, yêu cầu về mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác ngày nay đã trở thành một nhiệm vụ chủ yếu.

Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam được bắt đầu từ cuối những năm 80 khi Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới nền kinh tế. Đại Hội VII của Đảng (1991) đã thông qua định hướng nền kinh tế đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế “Nghị quyết đại hội VIII của Đảng (1996) đã quyết định : “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới” Nghị quyết hội nghị Trung Ương lần thứ 4 khoá VIII (12-1997) chỉ rõ nguyên tắc hội nhập là : “ trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực từ bên ngoài”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO”, có “ kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA”. (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế các quy định đối với mỗi quốc gia, là tự do hoá thương mại và đầu tư một cách công khai, rõ ràng theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:

  • Công bằng
  • Tự do hoá thương mại
  • Làm ăn hay thương lượng với nhau phải trên có sở có đi có lại.
  • Công khai mọi chính sách Thương Mại và đầu tư.

Với các nguyên tắc trên, nước “đi sau” như nước ta sẽ có nhiều thuận lợi, nhất là trong việc học hỏi các kinh ngiệm của các nước “đi trước”, nhưng cũng sẽ phải chịu rất nhiều khó khăn thách thức mà quan trọng hàng đầu là việc bảo hộ nền sản xuất trong nước và các doanh nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp quốc doanh mới “chân ướt, chân ráo” bước vào nền kinh tế thị trường.

Với tầm nhìn chiến lược xác định rõ tình hình và xu thế phát triển của thế giới, trên cơ sở yêu cấu bức xúc của phát triển kinh tế đất nước, Đại hội đã khẳng định “Xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế và Thế giới”, nghị quyết 4 của Ban chấp hành TW khoá III cũng đã nêu rõ:”tích cực, chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA”. Rõ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế là quan điểm, là định hướng phải được nhất quán tuân thủ. (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Qua nghiên cứu thực tiễn các hoạt động hội nhập kinh tế của các nước, nhất là các nước đang phát triển, có thể thấy rằng hội nhập kinh tế quốc tế luôn không phải chỉ toàn được mà không có thua thiệt. Vấn đề toàn cầu hoá như một:”con dao hai lưỡi”. Một mặt nó tạo cơ hội phát triển kinh tế- kĩ thuật, tạo khả năng giao lưu văn hoá, trí tuệ, chuyển giao công nghệ hiện đại, phát triển văn minh vật chất. Mặt khác, nó làm trầm trọng thêm bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo, làm xói mòn bản sắc văn hoá dân tộc, tấn công vào chủ quyền quốc gia. Về phương diện nguyên tắc, phải xác định một chiến lược hợp lý, sao cho có thể kiếm được lợi một cách tối đa và hạn chế đến mức thấp nhất có thể được những thua thiệt. Và điều quan trọng là cái được phải nhiều hơn cái mất.

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa tranh thủ vừa cạnh tranh, vừa tận dụng mọi cơ hội vừa phải đối phó với những thách thức to lớn. Đối với nước ta hiện nay, thách thức lớn nhất là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, nhất là các doanh nghiệp quốc doanh còn yếu, rất dễ bị thua thiệt trên thương trường; là sự thiếu hụt năng lực thu thập và phân tích thông tin để dự báo chiều hướng phát triển của nền kinh tế thế giới và các đối tác cạnh tranh, từ đó kém khả năng mở rộng và phát triển thị trường của mình. Ngay cả đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế của ta hiện nay cũng vừa học, vừa làm. (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Chúng ta tham gia cuộc đua tranh kinh tế khi trình độ kinh tế và công nghệ của ta còn thấp. Bảo vệ nền kinh tế cũng như bảo vệ các doanh nghiệp của ta, nhất là các doanh nghiệp quốc doanh là vấn đề phải được đặt lên hàng đầu. Một lộ trình hội nhập nhanh quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế với  mức độ cao quá khả năng của các doanh nghiệp sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường đối với nền kinh tế, đôi khi cả chính trị của đất nước. Song điều đó cũng không có nghĩa là càng kéo dài lộ trình hội nhập kinh tế với mức độ càng thấp càng  tốt. Bởi vì kéo dài lộ trình sẽ làm cho sức ì càng nặng, kém đầu tư cải tiến quản lý công nghệ, dẫn tới tình trạng kém hiệu quả, yếu sức cạnh tranh và nền kinh tế ngày càng tụt hậu so với nền kinh tế thế giới.

Toàn cầu hoá kinh tế có tác dụng trực tiếp đến chính trị, có những hệ quả về mặt chính trị. Song ở đây không nên hiểu luận điểm kinh tế quyết định chính trị một cách đơn giản và máy móc. Thông qua con đường hợp tác, đầu tư, tự do hoá thương mại, viện trợ, cho vay theo hướng khuyến khích tư nhân hoá, tự do hoá tư sản. Các thế lực tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mĩ muốn tạo ra những cơ sở kinh tế tư bản chủ nghĩa. Từ đó dẫn đến hình thành những lực lượng chính trị đối lập ngay trong lòng xã hội để thực hiện tự diễn biến hòng thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa( đối với các nước xã hội chủ nghĩa) hoặc thay đổi chính phủ theo hướng thân phương Tây( đối với các nước đang phát triển) gây sức ép về kinh tế và chính trị đối với các nước. Tuy vậy, chủ nghĩa đế quốc vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của các nước đang phát triển, các nước xã hội chủ nghĩa nhằm chống lại âm mưu áp đặt về chính trị. Vừa qua, Hiệp định thương mại Việt- Mĩ đã được kí kết, một hiệp định rất có lợi đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam, nhưng trước đó Mĩ định dùng áp lực này nhằm thông qua “đạo luật nhân quyền”, một sự can thiệp thô bạo vào nền chính trị của nước ta. (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Cũng như lĩnh vực chính trị, lĩnh vực văn hoá cũng chịu tác động bởi quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lưu quốc tế, tăng thêm mối liên hệ và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, sự xích lại gần nhau giữa các quốc gia. Do đó, nó cũng tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lưu về văn hoá, khoa học giữa các quốc gia, dân tộc tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của văn hoá nhân loại, bổ sung cho nhau tạo điều kiện hiện đại hoá văn hoá. Tuy nhiên, mặt khác, toàn cầu hoá kinh tế trong điều kiện do thế lực tư bản chi phối lại tạo nguy cơ làm sói mòn bản sắc dân tộc, mâu thuẫn với việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Trên thế giới, chủ nghiã đế quốc nhất là đế quốc Mỹ dựa trên sức mạnh kinh tế của mình đang muốn toàn cầu hoá văn hoá, thậm chí là Mỹ hoá. Người ta tuyên truyền về lối sống Mỹ, văn hoá Mỹ, còn các kênh truyền thông Mỹ thì phủ khắp hành tinh, phim ảnh Hô-li-út của Mỹ được chiếu khắp các nước, thậm chí đồ ăn thức uống Mỹ( Mac Donald, Coca Cola…) lan tràn khắp nơi. Đến nỗi Pháp cũng lo bị Mỹ hoá. Mỹ muốn áp đặt giá trị, lợi ích văn hoá, lối sống của mình cho toàn cầu. Chính vì thế, nước ta phải hết sức chú trọng đến vấn đề bảo tồn văn hoá trong xu thế toàn cầu hoá, tránh bị “hoà tan” trong khi “hoà nhập”. (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Không chỉ có vậy, toàn cầu hoá còn ảnh hưởng đến vấn đề môi trường. Từ năm 1973 đến nay, tuy số liệu điều tra chưa đầy đủ nhưng chắc chắn diện tích rừng bị giảm không phải là con số ít. Chẳng hạn như ở Lâm Đồng, mỗi măn tính trung bình có 10.000  ha rừng bị tàn phá. Trong vòng 20 năm trở lại đây có 25% diện tích rừng bị biến mất. Từ năm 1990 đến 1995, toàn cuốc có 5 triệu ha rừng bị huỷ diệt (bình quân mỗi năm mất 1 triệu ha rừng) . Vấn đề ô nhiễm môi trưòng , khói bụi và rác thải …

Tuy còn nhiều khó khăn và tồn tại nhưng sau  hơn 2 thập niên tham gia vào quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể. Hàng năm nền kinh tế đều có tăng trưởng: tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng bình quân hàng năm là 8,2% , giảm tỉ lệ lạm phát từ 14,7% năm 1986 xuống 12,7% năm 1995 và khoảng 5% năm 1996. Kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm (1991-1995) đạt 17 tỷ đô la và 1996 đạt trên 7 tỷ đô la. Mở rộng được quan hệ hợp tác với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư và kĩ thuật của nhiều nước để phát triển kinh tế trong nước đến cuối năm 1996 có trên 700 công ty lớn, nhỏ đầu tư vào nước ta với 22 tỷ đô la nằm trong 1800 dự án phát triển kinh tế thuộc nhiều thành phần khác nhau như: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, ngân hàng tài chính. Chúng ta đã thiết lập quan hệ buôn ngoại thương với 120 nước trên thế giới, xoá bỏ thế bị bao vây, cô lập về kinh tế tạo ra thế và lực mới để cạnh tranh trên thị trường thế giới. Môi trường kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định và cán cân thương mại ngày càng được cải thiện rõ rệt làm cho nền kinh tế phát triển và năng động hơn.

III-Những kiến nghị và giải pháp (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Để khắc phục những tồn tại của kinh tế Việt Nam nhằm mục tiêu đưa nền kinh tế phát triển và bền vững trước xu thế toàn cầu hoá em có những kiến nghị sau:

Xây dựng thể chế pháp lí cho quan hệ giữa nước ta và các nước hình thành một hệ thống đồng bộ các thoả thuận, cũng như các hiệp định làm nền tảng cho quan hệ hợp tác quốc tế. Cụ thể là: tham gia và hỗ trợ việc chuẩn bị, đàm phán kí kết các hiệp định, thoả thuận cấp chính phủ giữa nước ta với các nước, cũng như thực hiện tốt việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các thoả thuận, hiệp định đã được kí kết, cả phía ta và phía bạn. Góp phần xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế của ta cho phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành và phát triển các luật lệ, quy định quốc tế, nhằm bảo vệ tốt nhất lợi ích của đất nước và công dân ta trong quan hệ quốc tê. Pháp huy vai trò tích cực trong các uỷ ban hỗn hợp và các quy chế song phương về hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nước; kịp thời phát hiện, kiến nghị và phối hợp giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế; bảo vệ chủ quyền kinh tế và lợi ích kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách kinh tế, đặc biệt là về kinh tế đối ngoại. Nhiệm vụ này là của ngành ngoại giao. Cụ thể là làm thật tốt công tác tiếp thị, tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư, mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác. Với lợi thế, đặc điểm của ngành cần nắm vững chính sách, luật lệ của các nước sở tại, cung cấp nhanh và chính xác những thông tin quan trọng về thị trường, đối tác; nắm bắt kịp thời những nhân tố thuận lợi hoặc không thuận lợi; tăng cường giới thiệu về tiềm năng kinh tế, chính sách, luật lệ và nhu cầu của ta cho các đối tác nước ngoài. Ngành ngoại giao thực hiện công việc này trong sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, các địa phương, cũng như các doanh nghiệp.

Nghiên cứu kinh tế các nước, kinh tế thế giới, khu vực, các tổ chức kinh tế quốc tế và quan hệ kinh tế quốc tế; nghiên cứu kinh tế Việt Nam để góp phần hoạch định các chủ trương, chính sách kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh hiện nay, công tác này cần được tăng cường với chất lượng cao hơn để có những đề xuất tham mưu có gia trị cao với đảng và chính phủ. (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Tìm hiểu nhu cầu, khả năng về các mặt của các đối tượng, các nước và các tổ chức quốc tế , khả năng và nhu cầu của các bộ ngành trong nước để đề xuất kiến nghị với chính phủ có chủ trương, chính sách làm ăn với từng nước. Hiện nay và trong thời gian tới cần tập trung vào các lĩnh vực như: xúc tiến thương mại đặc biệt là tìm kiếm thị trường mới, mở rộng thị trường để tăng cường xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và xuất khẩu lao động của Việt Nam; thu hút FDI và các hình thức đầu tư quốc tế khác; vận động ODA, các hình thức viện trợ khác và hỗ trợ kĩ thuật của cộng đồng quốc tế, và xử lý nợ nước ngoài; thúc đẩy du lịch và chuyển giao công nghệ…; tranh thủ sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp phát triển đất nước, quảng bá văn hóa mang bản sắc dân tộc Việt Nam trên thế giới.

Trực tiếp chuẩn bị và đàm phán hoặc tham gia đàm phán kí kết các loại hiệp định, thoả thuận chính phủ (song phương, đa phương) giữa ta với các nước làm nền tảng pháp lý cho quan hệ hợp tác quốc tế phát triển; theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các hiệp định, thoả thuận đã kí kết. Hiện nay và tới   đây, cần quan tâm nghiên cứu đóng góp vào khả năng kí kết các hiệp định song phương   và đa phương nhằm hình thành một hệ thống đồng bộ các thoả thuận và hiệp định về tất   cả các mặt biên giới lãnh thổ, lãnh sự, hỗ trợ tư pháp, hợp tác kinh tế- thương mại và    khoa học- công nghệ.

Hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp trong việc móc nối, thẩm tra các đối tác, tìm kiếm và mở rộng thị trường; giúp đỡ các doanh nghiệp làm ăn ở nước ngoài. Trong thời gian tới cần: tích cực tìm kiếm và mở rộng thị trường quốc tế cho xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, người lao động và đầu tư của Việt Nam. (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Tham gia xây dựng khung pháp lý, các văn bản pháp quy về kinh tế vĩ mô nói chung và văn bản chuyên ngành, đặc biệt là việc thông tin về kinh nghiệm của các nước.

Công tác thông tin, tuyên truyền kinh tế nhằm cung cấp những thông tin cần thiết, chính xác cho những hoạt động kinh tế cụ thể của các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp.

Tham gia quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.

KẾT LUẬN (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy cao độ các nguồn nội lực, đồng thời thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp là nội dung quan trọng của đường lối kinh tế do Đại hội IX của Đảng đề ra. Chủ động hội nhập kinh tế là để tạo ra điều kiện xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ. Mặt khác, có độc tự chủ về kinh tế mới có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo giữ vững chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Tất cả vì  một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH Việc Việt Nam tham gia toàn cầu hoá kinh tế đã khơi dậy tiềm năng của sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển.

Do đó nền kinh tế nước ta thực sự được đổi mới, bước đầu đạt được những thành tựu to lớn: từ một nước đói kém, cơ sở vật chất nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu đến nay trở thành một nước không chỉ đủ ăn mà còn dư thừa, xuất khẩu ra nước ngoài( đặc biệt là lúa, gạo). Tuy nhiên, ta không được tự bằng lòng với những gì đã đạt được bởi vì đạt được đã khó, giữ được còn khó hơn. Vì thế đòi hỏi ta phải cố gắng nỗ lực không ngừng để củng cố những thành quả và tạo cho mình một chỗ đứng chắc chắn trên trường quốc tế. (Tiểu luận: Nguyên lý triết học để phân tích kinh tế Việt Nam)

2. Tiểu luận: Vận dụng quan điểm trong triết học Mác - Lê nin để phân tích quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 

A. Phần mở đầu

Xã hội loài người đã tồn tại, phát triển và trải qua các hình thái kinh tế và luôn gắn liền với hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất. Hay sản xuất ra của cải vật chất là nền tảng của đời sống xã hội. Nếu ngừng lao động sản xuất ra của cải vật chất thì sự sống trên toàn cầu bị huỷ diệt.Bên cạnh đó sản xuất vật chất còn là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần cuả hội .Qua đó ta thấy được tầm quan trong to lơn của kinh tế  trong sụ tồn tại và phát triển của  xã hội bởi vì kinh tế chinh là kết quả của quá trình lao động sản suất của cải ,vật chất. Không vượt khỏi quy luật khach quan, nền kinh tế nước ta cũng là nên tảng cho sự tồn tại và phát triển của đất nước ta .

Tháng 12 năm 1986, đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp và đề ra đường lối đổi mới kinh tế. Đó là chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Hơn 10 năm qua, việc chuyển đổi kinh tế luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của xã hội. Chính vì lý do đó mà em quyết định chọn đề tài trên cho bài tiểu luận này: "Vận dụng quan điểm trong triết học Mác - Lê Nin để phân tích quá trình chuyển đổi  sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam"

B. phần nội dung

Chương I: Cơ sở lý luận về chuyển đổi về nền kinh tế thị trường

I. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lê nin

Triết học Mác- Lênin đã trở thành cơ sở lý luận cho mọi khoa học khác và là kim chỉ lam cho mọi hoạt động tích cực của xã hội. Những quy luật mà triết học MácLê nin phát hiện, nó đã giúp con người nhận thức đúng đắn hơn về thế giới khách quan. Từ đó tích cực lao động cải tạo thế giới nhằm mục đích phục vụ cho cuộc sống con người. Và mặc dù sự tồn tại phát triển của thế giới rất phức tạp nhưng cũng không thể vượt qua những quy luật khách quan của chủ nghĩa Mác. Những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin đưa ra luôn được chứng minh là đúng thông qua những hoạt động sản xuất vật chất của toàn bộ thế giới.

Một trong những quan điểm đúng đắn đó phải kể đến quan điểm trong triết học Mác- Lê nin. Nội dung của quan điểm là: “ Khi con người xem xét sự vật hoạt động thì phải tìm ra được ra được các mối liên hệ vốn có của nó và đánh giá vai trò của từng mối liên hệ một. Từ đó thấy rõ được tất cả các mặt, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau”. Thật vậy, muốn xem xét, đánh giá một sự vật nào đó chúng ta cần xem xét một cách toàn diện dưới mọi góc độ và đặt nó trong mọi liên hệ. Quan điểm đó là phép duy vật biện chứng, là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Chính vì vậy quan điểm này đã góp phần to lớn khắc phục những hạn chế trước đây trong cách nhìn nhận, đánh giá sự vật và mở đường cho đánh giá đúng đắn kể từ khi nó ra đời. Sự đúng đắn của phép duy vật biện chứng được chứng minh bằng việc con người luôn vận dụng nó vào thực tiễn. Vận dụng quan điểm vào hoạt động lao động sản xuất và hoạt động kinh tế- chính trị- văn hoá nghiên cứu khoa học...v.v...Từ đó đẩy nhanh sự phát triển mọi mặt đời sống xã hội.

II. Khái niệm về kinh tế thị trường.

“ Một nền kinh tế mà trong đó các vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường” (Giáo trình: Kinh tế chính trị Mác- Lê nin (Tập 2). Cơ chế thị trường được hiểu là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là: cái gì? như thế nào? cho ai? cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung- cầu và giá cả thị trường.

III. Việc vận dụng quan điểm trong triết học Mác-Lê nin vào hoạt động 

Mọi hệ thống kinh tế điều được tổ chức bằng cách này hay cách khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Chính vì vậy, vấn đề cơ bản của hoạt động kinh tế là làm thế nào để áp dụng các nguồn lực và tổ chức sản xuất tốt nhất, việc phân phối hàng hoá sản xúât ra phù hợp nhất, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của xã hội .

Theo quy luật trung của tồn tại thì lĩnh vực kinh tế cũng biện chứng đó là: kinh tế luôn đòi hỏi các nhà hoạt động kinh tế phải tuân theo nguyên tắc toàn diện phát triển và lịch sử cụ thể trong vấn đề sản suất như sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào . Tức hoạt động sao cho hiệu quả kinh tế đem lại là lớn nhất. Vậy làm thế nào để đáp ứng được yêu cầu đó.

Ta biết, khi lý luận của triết học Mác-Lênin chưa ra đời đã có những hoạt động kinh tế nhưng do chưa nắm bắt được các quy luật khách quan của thế giới nên các hoạt động kinh tế còn mò mẫm và bị các quy luật tự nhiên chi phối dẫn đến năng suất lao động đạt được không cao. Từ khi triết học Mác-Lênin ra đời. Các quan điểm đúng đắn của nó đã chở thành cơ sử lý luận làm kim chỉ nam cho lĩnh vực hoạt đông kinh tế. Các nhà hoạt động kinh tế trên thế giới đã áp dụng quan điểm trong triết học MácLênin hay chính là phép duy vật biện chứng vào thực tiễn hoạt động của mình. Nhờ có quan điểm này,họ đã nắm bắt các quy luật khách quan của giới tự nhiên. Từ đó làm chủ các quy luật và biến các quy luật đó từ chỗ chi phối các hoạt động kinh tế đến chỗ bị các hoạt động kinh tế chi phối.

Lúc này các quy luật kinh tế lại trở thành yếu tố phục vụ con người. Việc vận dụng vào tổ chức quản lý kinh tế gồm một số nhuyên lý sau:

Một là: trong nền kinh tế không có một sự kiện nào ở trạng thái cô lập tách rời với sự kiện khác .

Hai là: Các thị trường hàng hoá cụ thể không tồn tại ở trạng thái cô lập tách rời. Do đó cần phân loại, đánh giá các mối liên hệ có thể điều chỉnh cho nền kinh tế đi đúng hướng.

Ba là : Bản thân nền kinh tế cũng không tồn tại trong trạng thái cô lập mà trong mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế-chính trị-ngoại giao- khoa học công nghệ .....

Vậy mọi sự kiện kinh tế chỉ tồn tại trong biểu hiện với tư cách là nó trong mối quan hệ với những sự kiện khác. Như vậy sự hình thành, phát triển kinh tế hàng hoá là tất yếu đối với sự phát triển của xã hội. Đến đây ta có thể khẳng định quan điểm trong triết học Mác-Lê nin là hoàn toàn đúng đắn và vai trò to lớn đối với lĩnh vực hoạt động kinh tế của con người ,đặc biệt vai trò đó đã được phát huy tích cực trong nền kinh tế thị trường.

Chương II Việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở việt nam

I. Chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế thi trường

1.Một số nét nổi bật của nền kinh tế nước ta trước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường.

Sau năm 1975 do vừa trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp va chống Mỹ nền kinh tế của nưóc ta đã bị tàn phá nặng nềvề cơ sở hạ tầng. Kinh tế của đất nước chủ yếu dựa vào nông nghiệp nhưng nông nghiệp lại nghèo nàn lạc hậu .Hình ảnh “con trâu đi trước, cái cày đi sau” đặc biệt là phương thức “hợp tác hoá, tập thể hoá” đã tạo nên sức ỳ và sự trì trệ lớn.Việc phân phối lao động theo khẩu hiệu “Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”dẫn đến sự ỷ lại của người lao động mà không quan tâm đến năng suất lao động. Bên cạnh nền nông nghiệp nghèo nàn,lạc hậu là các nghành nghề hoạt động yếu kém,thiếu thốn về cơ sở vật chất,về nền tảng khoa học do đó không thể làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế, một hạn chế rõ nhất đó là sản phẩm được phân phối bằng tem phiếu.

Nền kinh tế của đất nước đã như vậy cộng thêm cơ chế quản lý tập trung,quan liêu,bao cấp mà đất nước ta còn mất đi sự viện trợ của Liên Xô và các nước XHCN cũ,cấm vậnkinh tế,đặc biệt là lệnh cấm vận kinh tế của Mĩ. Chính vì vậy, giai đoạn 1975-1985 nền kinh tế của nước ta chậm phát triển. Những mâu thẫu nội tại từ nền kinh tế nước ta đòi hỏi phải đổi mới kinh tế để thoát khỏi khủng hoảng và thúc đẩy các yếu tố hàng hoá phát triển.

2 - Chính sách đổi mới nền kinh tế của Đảng và nhà nước ta. 

Tháng 2 năm 1986 Đại hội toàn quốc lần thứ 6 Đảng cộng sản Việt Nam đã tự phê phán nghiêm túc và đề ra đổi mới toàn diện xã hội.Đặc biệt là đổi mới về mặt kinh tế đó là chuyển sang nền kinh tế thị trường đồng thời cho chúng ta thấy rõ một nhận thức.Không thể tách rời các mục tiêu kinh tế xã hội ra khởi các mục tiêu kinh tế của bất cứ một chính sách kinh tế xã hội nào ,các yếu tố xã hội được xem như là sức mạnh nội sinh.Mà đã là sức mạnh nội sinh thì không nên xem các mục tiêu xã hội chỉ tuỳ thuộc vào các thành tựu kinh tế,ngược lại phải thấy rõ mối tương tác biện chứng giữa các mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế.Nói đến mục tiêu xã hội,chính là nói tới con người, từng lợi ích của con người và từng cộng đồng xã hội.Con người vừa là nguồn lực quan trọng nhất vưa là đối tượng hướng tới hành vi kinh tế.

Người ta ngày càng thấy rõ kinh tế học gắn bó mật thiết với xã hội học.Trên ý nghĩ đó,Đảng ta có su hướng cho rằng chính sách kinh tế tức là chính sách xã hội trên lĩnh vực kinh tế.

Đương nhiên, làm được điều đó không dễ.Bởi lẽ nếu trong những quyền của con người hướng tới quyền kinh tế là cơ bản nhất,quền chính trị là quyền quyết định nhất và quyền xã hội là quyền cao nhất nếu được nhận thức một cách đích thực ,các thành phần kinh tế điều suất phát từ thực tế xã hội đang vận hành theo quy luận của nó.Cần nhớ lời khuyên của Mác: “một xã hội ngay cả khi đã phát hiện được quy luận tự nhiên vận động của nó,cũng không thể nào nhẩy qua các giai đoạn tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ những giai đoạn đó.Nhưng nó có thể rút ngắn và làm xoa dịu bớt cơn đau...”

Qua đó Đảng ta đã rút ra một bài học đau đớn của chủ nghĩa duy ý chí  “muốn đốt cháy dai đoạn,không tính đến tình hình nước ta”.Phải làm gì ngay bây giờ đây ? Phải đổi mới tư duy, đổi mới giải pháp chiến lược tình thế và chiến lược lâu dài nhằm giải phóng sức sản xuất.

Biện chứng của sự vật sinh sản ra biện chứng của tư duy chứ không thể là ngược lại _đẽo chân vừa giày.Tự chúng ta phải tự tạo ra sức mạnh cho mình,phải tự tháo gỡ những ách tắc trong tư duy.Một lần nữa xin được cầu viện đến Mác “yêu cầu từ bỏ tình cảnh của mình cũng là yêu cầu từ  bỏ cái tình cảnh đang cần có ảo tưởng”.Trên ý nghĩ đó nghị quyết 8 của Đảng chỉ rõ: “Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước,đồng thời xác lập ctự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh,nhằm phát huy tác động tích cực to lớn đi đôi với ngăn chặn hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của thị trường.Nhà nước quản lýthị trường bằng pháp luận,cơ chế,kế hoạnh,các công cụ đòn bẩy kinh tếvà bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước” (*).Tại sao nền kinh tế thị trường lại phải có sự quản lý của nhà nước.

Chúng ta đã biết, cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường rất phức tạp bỏi nó bị chi phối bởi hàng loạt các quy luận kinh tế đan xen chằng chịt.Cơ chế thị trường với những ưu điểm: Kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo các điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế .Từ đó làm cho nền kinh tế năng động và huy động được các nguồn lực xã hội vào phát triển kinh tế.Sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường phải áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất để từ đó nâng cao năng suất lao động.

Lịch sử phát triển của sản xuất đã chứng minh rằng :Cơ chế thị trường là cơ chế điêu tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả cao.Song nó cũng không phải là hoàn hảo mà nó vốn có những khuyết tật,đặc biệt là về mặt xã hội. Có thể kể ra một số khuyết tật của nền kinh tế thị trường như lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường,đặc biệt là gây ra các tệ nạn xã hội làm tổn hại đến truyền thống đạo đức của dân tộc .

Đảng và nhà nước ta đã nhận thức rõ điều đó.Trên cơ sở lý luận thực tiễn,bằng biện pháp áp dụng quan điểm trong triết học Mác-Lênin,đã xem xét cơ chế thị trường một cách tổng thể,nhìn nhận dưới mọi góc độ,đánh giá những ưu điểm,nhược điểm,từ những thành tựu đến nhữngthiếu sót trong nền kinh tế thị trường.Đặc biệt Đảng vàNhà nước ta đã đặt nền KT thị trường vào hoàn cảnh của Việt Nam nhận thức so sánh giữa cái được và cái mất,nắm vững bản chất của kinh tế thị trường với đầy đủ các yếu tố và thuộc tính của nó.  Do vậy,trong quan điểm của Đảng ta thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu: “Dân giầu-Nước mạnh-Xã hội công bằng-Văn minh”

Cơ chế thị trường theo định hướng định hưóng xã hội chủ nghĩa hay cơ chế thị trường của chủ nghĩa xã hội có những đặc trưng sau

Trước hết, Trong kinh tế thị trường dưới CNXH sở hữuquốc doanh và tập thể phải dữ vai trò chủ thể (định lượng)và chủ đạo(định tính).Đặc trưng này đã phân biệt kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

Mặt khác,phải khuyến khích kinh tế cá thể,tiểu chủ và tư nhân trong các nghành nghề.Nhà nước chỉ can thiệp khi có những biểu hiện tiêu cực.Chính vì vậy mà kinh tế thị trường ở nước ta phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.

Để áp dụng vào thực hiện nền kinh tế thị trường của CNXH Đảng và nhà nước ta đã đề ra một số biện pháp sau: đảm bảo ổn định chính trị xã hội cần thiết lập hệ thống pháp luật đây là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài.Bởi vì xã hội ổn định về thể chế chính trị là nền tảng để phát triển kinh tế, mà xã hôi muốn đảm bảo công bằng thì phải có sự quản lý của nhà nước bằng hệ thống pháp luật khiến cho mọi người yên tâm lao động và hoạt động kinh tế .

II- Nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước Việt Nam 

* Những mục tiêu, thành tựu -hạn chế và biện pháp khắc phục

Nhờ chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 10 năm thực hiện đổi mới nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lởntong tất cả các nghành, các thành phần kinh tế.              Về nông nghiệp:Từ một nền nông nghiệp nghèo nàn,lạc hậu hiện nay nông nghiệp nước ta có nhiều đổi mới. Sự nghiệp công nghiệp hoá -hiện đại hoá đưa máy móc vào sản xuất nông nghiệp đã giải phóng dần dần sức lao động của người dân.Việc áp dụng khoa học kỹ thuật,đưa phân bón, thuốc trừ sâu, các giống lúa mới, kỹ thuật canh tác mới vào sản xuất đã nâng cao năng suất lao động. Sản lượng nông nghiệp không những đáp ứng nhu cầu của người dân mà còn dư thừa để xuất khẩu.Thành tựu to lơn đó phải kể đến là nước ta đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu gạo.

Về công nghiệp: Từ một nền công nghiệp nhỏ bé, hiện nay công nghiệp đã đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế của đất nước. Nhiều nhà máy lớn với thiết bị máy móc hiện đại được xây dựng và phát triển mạnh.Nếu như trước đây chỉ có nghành công nghiệp khai khoáng, đóng tầu, dệt may... thì nay đã phát triển thêm các nghành công nghiệp mới như các nghành; chế tạo máy, chế biến thực phẩm,công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng, công nghiệp điện tử... đặc biệt là nhà máy chế biến dầu thô ở Dung Quất - Quảng Ngãi, đây là nhà máy lọc dầu vào loại lớn nhất ở khu vực Đông Nam á.

Ngành du lịch và dịch vụ trong những năm gần đây đem lại phát triển thu nhập lớn cho nền kinh tế nước ta. Các khu du lịch nổi tiếng, di tích lịch sử được bảo tồn, tôn tạo hàng năm thu hút lượng du khách rất lớn cả trong nước và trên quốc tế.

Ngành giao thông vận tải đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu của nền kinh tế. Hệ thống cầu đường được nâng cấp và sửa chữa nhiều. Xây dựng nhiều tuyến đường và cầu phà, đảm bảo lưu thông được nhanh chóng ,phù hợp với tốc độ vận động của kinh tế thị trường, không những phát triển giao thông đường bộ mà cả giao thông đường thuỷ, đường hàng không cũng phát triển đáng kể .

Trong thương nghiệp: những năm gần đây còn mở rộng các quan hệ kinh tế. Đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam á .Luật đầu tư nước ngoài  với những điểm tạo điều kiện cho phía đầu tư đã ngày càng thu được những hợp đồng kinh tế quan trọng. Thật đáng mừng với con số 1644 dự án đầu tư được cấp giấy phép với tổng số vốn là 21,8 tỷ USD tính từ năm 1996-1998.

Bên cạnh việc chỉ đạo đổi mới và phát triển kinh tế Đảng và nhà nước ta cũng không quên tính khách quan, tính duy vật của kinh tế. Vì vậy Đảng luôn đặt nền kinh tế vào trung tâm và so sánh với các hoạt động khác.Để trong sự tồn tại phát triển của xã hội có sự đồng bộ giữa các nghành, các lĩnh vực đảm bảo sự phát triển vững vàng ,an toàn và hiệu quả.

Ta đã biết, công bằng xã hội là một đặc trưng cơ bản của xã hội mới, là ước mơ khát vọng của nhân dân, là động lực thúc đẩy mọi người vươn lên trong cuộc sống. Muốn như vậy, các nhà lãnh đạo của nước ta phải luôn vạch ra đường lối chỉ đạo cho các hoạt động diễn ra theo đúng quy luật. Một số giải pháp mà nhà nước ta đã thực hiện là: bên cạnh việc phát triển KTTT là chính sách đẩy mạnh KHKT, khuyến khích tài năng sáng chế, phát minh bảo vệ môi trường, chống buôn lậu và làm hàng giả. Xây dựng hệ thống pháp luật đảm bảo quyền bình đẳng cho các doanh nghiệp, mà pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, pháp luật nói chung và pháp luật hành chính nói riêng có mối quan hệ biện chứng với kinh tế. Đồng thời , nền kinh tế thị trường đã quyết định sự hiện diện của pháp luật hành chính với những quy định mới, quyết định toàn bộ nội dung và tính chất cũng như cơ chế điều chỉnh của pháp luật hành chính đã tạo ra hành lang pháp lý mới đảm bảo tính quyền lực nhà nước đồng thời đảm bảo nguyên tắc tự do, dân chủ. Vai trò của pháp luật hành chính đối với nền kinhtế thị trường thể hiện ở các mặt sau: Về cơ cấu sở hữu;cơ chế kinh tế; Về xác định địa vị pháp lý hành chính của cơ quan nhà nước trong nền kinh tế thị trường; Về cơ chế giải quyết khiếu lại tố cáo của công dân. Như vậy, để quản lý xã hội bằng pháp luật nhất là trong bối cảnh có sự chuyển đổi kinh tế xã hội, đòi hỏi Nhà nước  phải thường xuyên củng cố, hoàn thiện cơ chế điều chỉnh của pháp luật.

Quá trình cải cách kinh tế không chỉ thành công trong việc thúc đẩy kinh tế mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho các tầng lớp dân cư Việt Nam. Các mặt xã hội trong vài năm gần đây được nâng cao và cải thiện đặc biệt việc giáo dục đã đạt đưọc những thành tựu đáng kể trong giai đoận phát triển. Một số kết quả dưới đây sẽ cho chúng ta thấy rõ: như năm 1989 tỷ lệ ghi danh sách của cấp 1 là 97% thì đến năm 1995tỷ lệ này là 115%, tỷlệ ghi danh sách cấp 2 của năm1989 là 46,2%, đến năm 1995 tăng lên54,8%, tương ứng ở cấp 3 tỷ lệ này tăng 16,4% năm 1989, tăng 18,9%năm 1995. Số lượng trung học, dậy nghề và đại học cũng tăng đáng kể. Đầu tư ngân sách cho giáo dục đào tạo tăng đáng kể. Nếu năm 1990 đầu tư cho giáo dục chỉ chiếm 8,3% tổng chi ngân sách và 1,83%GDP thì đến năm1994 chiếm tới 10,44% tổng chi ngân sách và

2,7% GDP

Dù có những thành công nêu trên,song sự nghiệp giáo dục và đào tạo ỏ Việt Nam cũng đang đứng trước nhiều thách thức lớn với những nhiệm vụ nặng nề trước các yêu cầu mới về phát triển kinh tế. Những cản ngại và thách thức trong giáo dục và đào tạo ở VN bao gồm:hiến pháp và các chính sách của VN đều khuyến khích mọi công dân đều có bình đẳng và ngang nhau về cơ hội học hành nhưng trên thực tế vẫn còn sự bất bình đẳng về cơ hội học hành giữa nam và nữ, giữa thành thị và nông thôn, giữa giàu và nghèo; chất lượng nguồn lực lại chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển; chất lượng đội ngũ giáo viên các cấp vẫn còn thấp chưa  đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục; đầu tư về giáo dục vẫn còn hạn chế và quản lý giáo dục-đào tạo còn những bất cập trong phân cấp quản lý các nguồn tài chính cho giáo dục- đào tạo.

Không những phát triền kinh tế,giáo dục, hệ thống pháp luật .......mà cần phải coi trọng đến hệ thống quốc phòng. Trong điều kiện địa hình dài hẹp dễ bị chia cắt như nước ta ,nếu sự phát triển của kinh tế chỉ tập trung vào một số nghành, địa bàn thuận lợi mà nhà nước thiếu sự định hướng phát triển bằng một chiến lược, kế hoạnh, quy hoạnh tổng thể sẽ tạo ra sự phát triển thiếu cân đối giữa các nghành, các vùng. Từ đó thế trận bảo đảm kinh tế cho quốc phòng không được bố chí hợp lý để tạo ra lực cộng hưởng giữa các thành phần kinh tế. Mặc dù đang là nhà nước độc lập, tự do nhưng nhà nước vẫn phải củng cố quốc phòng toàn dân. Cảnh giác với mọi thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá cách mạng và lật đổ chủ nghĩa xã hội ở VN không ngừng tuyên truyền giáo dục cách mạng cho nhân dân, xây dựng lòng tin cho nhân dân vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự quản lý có hiệu lực của nhà nước. Như vậy tính chất bảo đảm quốc phòng trong nền kinh tế thị trường cũng chở nên phức tạp, đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều lực lượng từ Trung ương đến cơ sở, thông qua một cơ chế đảm bảo đồng bộ, hiệu lực và hiệu quả.

Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước không chỉ là hoạt động kinh tế bó hẹp trong nước mà còn phải tham gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Muốn làm được điều đó ta phải xem xét, đánh giá một cách kỹ lưỡng, tìm ra mối quan hệ vốn có của nó đồng thời có sự phân loại, đánh giá vai trò cuả từng mối quan hệ để thấy rõ các thuộc tính của nó (ví dụ: xuất khẩu, nhập khẩu, vay vốn nước ngoài.......)

Những thành tựu kể trên là kết quả to lớn trong những năm chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, chúng ta luôn tự hào về điều này song vẫn còn là quá nhỏ bé so với sự phát triển của thế giới. Từ đó đòi hỏi toàn Đảng và toàn dân ta phải tiếp tục phát huy trong thời gian tới.

Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường phải có một nhà nước pháp quyền mạnh, nhưng thể chế chính trị còn chưa hoàn hảo, chưa thực hiện công bằngXH. Nạn tham nhũng,lợi dụng chức quyền làm sói mòn niềm tin của nhân dân vào Đảng và nhà nước. Nạn thất nghiệp làm cho nhiều người không có việc làm dẫn đến nẩy sinh các tệ nạn xã hội .....

Vì vậy Đảng ta cần vận dụng quan điểm, lý luận của triết học Mác-Lênin để khắc phục những hạn chế nói trên.

Hiện nay Đảng và nhà nước ta đã đề ra hàng loạt các biện pháp thực hiện nhằm định hướng cho nền kinh tế thị trường đạt được kết quả cao nhất mà vẫn đảm bảo công bằng xã hội như:  xã hội định rõ nội dung-mục tiêu và bước đi của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường vẫn dữ đúng chủ nghĩa xã hội .Phát huy đầy đủ vai trò của các đòn bẩy kinh tế .Nhanh chóng giải quyết vấn đề việc làm trong xã hội. Đẩy lùi các tệ nạn, thực hiện công bằng hoạt động và phát triển.

Ngày nay, KTTT chịu sự tác động tích cực của nhà nước, do Đảng đứng đầu. Nhận thức rõ điều đó Đảng và nhà nước luôn từng bước xem xét, đánh giá những kết quả đạt được. Đồng thời rút ra kinh nghiệm, phương hướng và mục tiêu phát triển sau này. Để giải quyết những vấn đề đó quản lý kinh tế cần suất phát từ các quan điểm sau:

Cần phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế, tuân thủ theo nguyên tắc tự do giá cả bên cạnh luôn coi trọng thị trừơng nông thôn và lấy hoạt động xuất nhập khẩu làm đòn bẩy . Khuyến khích phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, áp dụng nguyên lý lợi thế trong quan hệ trao đổi quốc tế. Tiếp tục đổi với sự quản lý của nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Đặc biệt chú trọng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hướng tới mục tiêu xã hội: “dân giàu – nước mạnh -xã hội công bằng văn minh”

Nói tóm lại trong thời gian tới Đảng nhà nước ta phải hoạt hoạt động sao cho đạt hiêụ quả cao nhất trong mọi mặt của đời sống xã hội ./.

C. phần kết luận

I- Tóm lược lại phần nội dung

Từ những vấn đề đã nêu ở trên ta có thể khẳng định :

Việc vận dụng quan điểm trong triết học Mác- Lênin vào sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta là một quyết định sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Cơ sở lý luận là một chân lý được chứng minh trong suốt quá trình phát triển của xã hội Bên cạnh đó khi áp dụng vào Việt Nam lại được lãnh đạo Đảng xem xét, đánh giá toàn diện, khách quan. Đặt điều kiện hoàn cảnh của đất nước từ đó có chính sách đổi mới và phát triển phù hợp . Hơn 10 năm qua lĩnh vực kinh tế của đất nước đã đạt những kết quả và thành tựu to lớn, kinh tế tăng trưởng nhanh, xã hội ổn định và vững bước đi lên. Đời sống nhân dân được cải thiệt đáng kể .

Tuy nhiên trong lòng bản chất của nền kinh tế thị trường được ví như con dao hai lưỡi, nó cũng có những khuyết tận riêng, những khuyết tật đó cũng được biểu hiện trong nền kinh tế ở Việt Nam. Nhưng chính sách của Đảng luôn luôn được đề ra để khắc phục những hạn chế một cách tốt nhất. Đồng thời, phương hướng đổi mới và phát triển cũng được đặt ra tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định nền kinh tế của đất nước trong tương lai .

Trên đây một số ý kiến phân tích quá trình chuyển đổi sanh nền kinh tế thị trường ở Việt Nam mà em đã tiếp thu được trong quá trình học tập và tham khảo tài liệu.

II- Ý kiến của bản thân  

Qua thời gian học tập ở trường em đã rút ra được nhiều bài học bổ ích và thực sự có thêm nhiều hiểu biết. Trước đây khi còn học ở phổ thông em hiểu rất mơ hồ về nền kinh tế thị trường ở nước ta. Nhưng bây giờ em đã hiểu rõ hơn về nền kinh tế thị trường những ưu điểm và nhược điểm của nó. Cũng nhờ học quan điểm trong triết học Mác- Lênin em có thêm vững vàng trong việc đánh giá, nhận xét các sự việc trong cuộc sống .

Qua đây em cũng hiểu được vai trò lãnh đạo của Đảng và việc quản lý xã hội của nhà nước. Đảng là ánh thái dương chỉ đường cho mọi hoạt động của nhà nước, Nhà nước bước theo con đường của Đảng vạch ra, đưa nước ta hội nhập vào xu thế phát triển chung trên thế giới .

Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá vơí chiến lược hướng ra xuất khẩu. Nhưng hiện nay đất nước ta vẫn còn nhiều khó khăn mà khó khăn lớn nhất là tiềm lực kinh tế còn non yếu. Chắc chắn rằng trong tương lai Đảng và Nhà nước ta sẽ có những chính sách tốt nhất để khắc phục các hạn chế.

Bằng trình độ hiểu biết của em về tình hình kinh tế - chính trị -xã hội của nước ta. Em xin đưa ra một ý kiến nhỏ của riêng mình. Đó là, em mong muốn rằng Đảng và nhà nước ta sẽ quan tâm hơn nữa đến thế hệ trẻ nhất là học viên chúng em.

Theo em nghĩ thế hệ trẻ luôn là lực lượng nòng cốt cho đất nước sau này. Vận mệnh của đất nước trong tương lai chịu sự chi phối không nhỏ của thế hệ trẻ. Nếu hiện nay thế hệ này được giáo dục - đào tạo tốt sẽ là tiền đề cho đất nước phát triển ổn định. Là một sinh viên được học tập và rèn luyện tại trường Cao đẳng VHNT quân đội. Em mong sẽ nhận được sự quan tâm hơn nữa của Đảng và Nhà nước để chúng em có được một môi trường học tập và rèn luyện tốt hơn, mong đóng góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào sự nghiệp phát triển chung của Đất nước .

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo