Tiểu luận triết học phương Tây

Triết học, theo nghĩa chung nhất, là hệ thống tri thức lý luận chung nhất về thế giới và vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học có thể nói là một khoa học cổ xưa, ra đời từ cách đây khoảng 2800 đến 2500 năm ở cả phương Đông và phương Tây. Dưới đây là một số thông tin ACC thu thập được để bạn đọc tham khảo về đề tài Tiểu luận triết học phương Tây.

Http://www.metmuseum.org/art/collection/search/436105
Tiểu luận triết học phương Tây

1. Triết học Hy Lạp và La Mã (trước thế kỷ V)

Sự phát triển của triết học La-mã và Hy-lạp cổ đại được chia thành ba thời kỳ:

– Thời kỳ tiền Socrate: Trước thế kỷ IV tcn với các trường phái triết học tiêu biểu là Milê, Pitago, Hêraclit, Êlê… Thời kỳ này các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà khoa học tự nhiên. Vấn đề được các nhà triết học quan tâm hàng đầu là vấn đề bản thể luận.

– Thời kỳ Socrate: Từ thế kỷ IV tcn đến thế kỷ III tcn, đây là thời kỳ cực thịnh của triết học Hy-La, với các triết gia nổi tiếng Socrate, Platon, Aristote, Democrit và vấn đề mà họ quan tâm trong triết học của mình là vấn đề con người.

– Thời kỳ Hy Lạp hoá: Đây là thời kỳ Hy Lạp bị La Mã chinh phục về lãnh thổ, nhưng La Mã lại bị Hy Lạp khuất phục bởi những giá trị của nền văn hóa rực rỡ của Hy Lạp cổ đại. Giai đoạn này các nhà triết học lảng tránh những vấn đề trung tâm của triết học, mà chìm đắm với những suy tư về định mệnh, chìm đắm trong đời sống tình cảm và ham muốn… nó báo hiệu cho sự suy tàn của triết học Hy-La.

Triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại có các đặc điểm sau:

– Là sự kết tinh những gì tinh túy nhất của nhận thức tổng hợp nhân loại từ cộng sản nguyên thủy đến chiếm hữu nô lệ ở phương Tây, nó dung chứa hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan, dù chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc, nhưng vô cùng phong phú và đa dạng.

– Con người là vấn đề trung tâm của triết học, nhưng chỉ là con người cá thể. Giá trị thẩm định con người mới chỉ chủ yếu là đạo đức, giao tiếp và nhận thức.

– Tính duy vật tự phát và biện chứng sơ khai là một trong các đặc điểm nổi trội của triết học Hy-La cổ đại.

2. Triết học Tây Âu thời trung cổ (tk V-XV)

Sự hình thành của triết học Tây Âu trung cổ không tách rời những ảnh hưởng của triết học Cơ đốc giáo từ thế kỉ II đến thế kỷ IV (với các triết gia tiêu biểu là Téc-tu-liêng, Au-guýt-xtanh). Triết học kinh viện là điểm nổi bật của triết học Tây Âu thời trung cổ và nó chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học Platon, Aristote.

Sự phát triển của triết học Tây Âu thời trung cổ có thể chia thành ba thời kỳ: Thời sơ khai (IX-XII với các triết gia Giăng-Scốt, A-sen-me-de-Khan-to-be-ryAn-bê-la), Thời hưng thịnh (XII-XIII với các triết gia Anbe-lơGrăng, Tô-mát-Đa-canh), Thời suy tàn (XIV-XV với các triết gia Rô-giê-Bêcơn, Đôn-xcốt, Ốc-Cam).

Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời Trung cổ là:

– Là tiếng đồng vọng của tôn giáo, là sự biện minh của thần học. Đây là thời kỳ triết học phục tùng thần học và phục vụ tôn giáo, trên thực tế triết học đã là đầy tớ của thần học và tôn giáo.

– Trung tâm của triết học Tây Âu thời trung cổ là mối quan hệ giữa niềm tin và tri thức: Triết lý thuần tuý, tư biện bị vấp chắn bởi các chân lý đời thường; Triết lý kinh viện bị nan giải khi lấy niềm tin làm tiền đề giải quyết các mối quan hệ riêng – chung; Đức tin đã không thể giải thích được tại sao con người luôn tư duy bằng khái niệm trong khi thế giới hiện thực chỉ tồn tại các sự vật cụ thể đơn nhất.

– Cuộc đấu tranh của triết học trên vấn đề cơ bản được biểu hiện qua xung đột giữa chủ nghĩa duy danh và chủ nghĩa duy thực. Các nhà triết học duy danh khẳng định cái riêng có trước quyết định cái chung. Các nhà triết học duy thực lại khẳng định cái chung có trước quyết định cái riêng.

– Con người trong triết học Tây Âu thời Trung cổ chỉ là những sinh linh nhỏ bé, tội nghiệp, thụ động, trĩu nặng tội tông truyền, phải ăn năn sám hối trong kiếp làm người.

3. Triết học Tây Âu thời kỳ Phục Hưng (tk XV-XVI)

Đây là thời kỳ giai cấp tư sản ra đời và lớn mạnh, họ gương cao ngọn cờ duy vật và vô thần cùng nông dân đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến ở phương Tây. Các nhà triết học tiêu biểu thời kỳ này là: Ni-cô-lai-Cô-péc-ních, Bờ-ru-nô, Ga-li-lê. Triết học Tây Âu thời phục hưng vì thế có các đặc điểm:

– Là vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội. Do giương cao chủ nghĩa duy vật và vô thần mà nhiều nhà tư tưởng tiến bộ đã bị giáo hội sát hại, bắt bớ, cầm tù.

– Phiếm thần và tự nhiên thần là biểu hiện của sự thỏa hiệp với triết học duy tâm hữu thần và cũng là tính hai mặt của các nhà triết học duy vật Tây Âu thời kỳ phục hưng.

– Con người trong triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng là thước đo vẻ đẹp cường tráng của thân thể, sự tinh anh của trí tuệ và chỉ biết thờ phụng, chiêm ngưỡng chính bản thân mình, với một khát vọng cháy bỏng về tự do.

– Chủ nghĩa nhân văn kiểu chủ nghĩa xã hội không tưởng là một trong những đặc điểm nổi bật của triết học Tây Âu thời phục hưng.

4. Triết học Tây Âu thời cận đại (tk XVII-XVIII)

Đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời cận đại là:

– Giai cấp tư sản tiếp tục giương cao ngọn cờ duy vật và vô thần trong cuộc đấu tranh để thiết lập trật tự tư bản chủ nghĩa và giải phóng con người. Những quan niệm xã hội tiến bộ của chủ nghĩa duy vật trở thành cơ sở lý luận cho việc bác bỏ thần học và tôn giáo. Con người đã trở thành niềm kiêu hãnh của thời đại. Nhưng con người mới chỉ được đề cập ở khía cạnh cá thể, những bức bách được khẳng định về năng lực và giải phóng ở tính sinh vật, nhận thức và nhu cầu tình cảm, còn mặt bản chất xã hội ít được đề cập đến.

– Triết học duy vật Tây Âu thời cận đại phát triển trong quan hệ gắn bó chặt chẽ với khoa học. Việc phân định nhà triết học và khoa học tự nhiên nhiều trường hợp chỉ có ý nghĩa tương đối.

– Triết học duy vật Tây Âu thời cận đại chịu ảnh hưởng nặng nề sự thống trị của phương pháp siêu hình.

– Triết học duy vật Tây Âu thời cận đại là triết học duy vật không triệt để, họ thường duy vật khi bàn về các hiện tượng tự nhiên, nhưng duy tâm khi giải quyết các vấn đề xã hội.

– Triết học Tây Âu thời cận đại đặc biệt quan tâm đến vấn đề nhận thức luận và phương pháp luận. Trong nhận thức luận họ thường đề cao một trong hai giai đoạn của quá trình nhận thức cảm tính hay lý tính nên không thấy được tính biện chứng, thống nhất của quá trình nhận thức. Về mặt phương pháp thì lại tuyệt đối hoá một trong hai phương pháp nhận thức diễn dịch hay quy nạp do chủ thể mà không do đối tượng và mục đích nghiên cứu quyết định.

– Cuộc đấu tranh tiêu biểu của triết học trong thời kỳ này là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học Beccơly và Điđơrô.

5. Triết học cổ điển Đức (tk XVIII-XIX)

Triết học cổ điển Đức có các đặc điểm sau:

– Là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Thế giới quan và ý thức hệ này mang tính hai mặt, vừa chống lại, vừa thỏa hiệp với giai cấp phong kiến Đức, nó mang tính bảo thủ, cải lương về chính trị-xã hội, mâu thuẫn với tính cách mạng và khoa học.

– Đặc biệt đề cao vai trò vị trí tích cực của con người. Các nhà triết học cổ điển Đức đã khẳng định con người là chủ thể, là kết quả, là sản phẩm của hoạt động tự nó, cho nó, vì nó; Thực tiễn cao hơn lý luận; Lịch sử chỉ là phương thức tồn tại của con người; Cá nhân có thể làm chủ được vận mệnh của mình; Và cao hơn là tư tưởng về con người mang bản chất xã hội. Tuy nhiên, họ lại sùng bái tuyệt đối hoá vai trò của lý tính, của tư duy. Biến tư duy của con người thành một thực thể độc lập với đời sống thực của nó, thực thể tinh thần tối cao làm căn nguyên để giải thích cho tất cả mọi cái, mọi hiện tượng đang hiện tồn.

– Dù là biện chứng duy tâm, nhưng các nhà triết học cổ điển Đức, lần đầu tiên đã làm cho phép biện chứng tồn tại với tư cách là một phương pháp nhận thức tự giác có tính đồng kết, được biểu hiện chặt chẽ qua hệ thống các khái niệm, phạm trù. Nó là một trong các cơ sở tiền đề lý luận của triết học Mác.

– Cuộc đấu tranh tiêu biểu của triết học ở thời kỳ này là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học Hêghen và Phơbách.

6. Triết học hiện đại thế kỷ XIX đến nay

Thời kỳ này, kể từ 1848 với sự ra đời của Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, khai sinh CNXHKH vũ khí lý luận của giai cấp công nhân hiện đại, đấu tranh bảo vệ quyền lợi và lợi ích cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thì đây cũng là thời kỳ ra đời của hàng trăm trường phái triết học tư sản hiện đại chống lại triết học Mác-Lênin.

Triết học Mác-Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng cách mạng và khoa học nhất của tư duy triết học nhân loại. Các trường phái triết học tư sản hiện đại thì đang bằng cách này hay cách khác làm sống lại các trường phái triết học duy tâm trong lịch sử. Thậm chí họ sử dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ nhằm cố chứng minh cho sự vĩnh hằng của các đấng siêu nhiên.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo