Trong lịch sử phát triển của triết học nhân loại triết học Hy Lạp là khúc mở đầu cho giai đoạn phát triển của triết học phương tây, trong đó triết học cổ đại Hy Lạp với những nhà triết học xuất chúng như Đémocrite và Platon là khởi nguồn cho mọi sự phát triển của triết học. Tìm hiểu triết học Hy Lạp cổ đại không gì hơn là tìm hiểu tư tưởng triết học của Đémocrite và Platon, tìm hiểu sự đấu tranh giữa hai trường phái triết học duy vật và duy tâm.
Về tiểu luận triết học Hy Lạp cổ đại
Những đặc điểm cơ bản của triết học hy lạp cổ đại
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Triết học Hy Lạp cổ đại là một thời kì phát triển rực rỡ của triết học nhân loại với nhiều thành tựu lớn. Những thành tựu thời kì này có thể nói là hết sức to lớn nếu so với nền khoa học cụ thể. Nổi bật trong số các giá trị đạt được trong thời kì này có thể nói là “thuyết nguyên tử” và phép biện chứng. Với những giá trị này
triết học Hy Lạp cổ đại đã trở thành một nền tảng để phát triển triết học sau này. Cụ thể thấy hầu hết các trường phái triết học hiện đại đều có mầm mống của triết học Hy Lạp cổ đại để lại. vậy vì sao với một nền khoa học thực nghiệm kém phát triển như vậy lại có thể nảy sinh những học thuyết, những tiên đoán tuyệt vời như vậy? Và những giá trị và hạn chế của những học thuyết này là gì? Đây chính là lý do vì sao em chọn đề tài: “Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại”.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu về triết học Hy Lạp cổ đại với những giá trị và hạn chế thời kì này
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu các đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại, các đại biểu cùng các quan niệm, giá trị, hạn chế của các trường phái đó
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp lịch sử và đối chiếu
6. Giả thiết khoa học:
Triết học Hy Lạp cổ đại
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1- ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1 - Về tự nhiên
Hy Lạp cổ đại chính là cái nôi của nền triết học phương Tây. Đây là quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa. Bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng (Balcans), miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền Egee. Hy Lạp được chia làm ba khu vực. Bắc , Nam và Trung bộ. Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trù phú, có thành phố lớn như Athen. Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đông của bán đảo Ban Căng khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển. Các đảo trên biển Êgiê (Egée) là nơi trung chuyển cho việc đi lại, buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven biển Tiểu Á là đầu mối giao thương giữa Hy Lạp và các nước phương Đông. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Nơi có nhiều triết gia mà triết lý của họ trở nên bất hủ.
1.2 Về kinh tế
Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả và lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay bổng, mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế. Thế kỷ 8 – 6 TCN, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy giờ đồ sắt được dùng phổ biến, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được cũng cố. Sự phát triển này đã kéo theo phân công lao động trong nông nghiệp, giữa nghành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ 8 TCN là lực đẩy quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng lân cận. Engels đã nhận xét: “Phải có những khả năng của chế độ nô lệ mới xây dựng được một quy mô phân công lao
động lớn lao hơn trong công nghiệp và nông nghiệp, mới xây dựng được đất nước
Hy Lạp giàu có. Nếu không có chế độ nô lệ thì cũng không có quốc gia Hy Lạp,
không có khoa học và công nghiệp Hy Lạp”.
1.3 Về chính trị - xã hội
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội phân hóa ra làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa thành lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ. Mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparte và Athen là hai
thành phố cổ hùng mạnh nhất, nồng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại. Thành bang Athen nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại, và là cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Athen. Thành Sparte nằm ở vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát triển
nông nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế Sparte đã xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ. Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại của thành Athen. Cuộc chiến tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và quân sự của đất nước Hy Lạp. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các cuộc nỗi dậy của tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc khác nhau, không có ngôn ngữ chung, không có quyền hạn, không được tham gia vào các hoạt động xã hội, chính trị. Chớp lấy thời cơ, Vua Philíp ở phía Bắc Hy Lạp
đã đem quân xâm chiếm toàn bộ bán đảo Hy Lạp thế kỷ thứ 2 TCN, Hy Lạp một lần nữa bị rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy đế quốc La Mã chinh phục được Hy Lạp, nhưng lại bị Hy Lạp chinh phục về văn hóa.
Engels đã nhận xét “không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”. Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hóa mà các chuyến vượt biển đến với các nước phương Đông trở nên thường xuyên. Chính vì thế tầm nhìn của họ cũng được mở rộng, những thành tựu
văn hóa của Ai Cập, Babilon đã làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên. Tất cả các lĩnh vực, những yếu tố của nước bạn đều được người Hy Lạp đón nhận, “Những người
Hy Lạp mãi mãi là đứa trẻ nếu không hiểu biết gì về Ai Cập”. Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng xán lạn với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại. Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn học thần thoại rất phong phú, những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản ánh cuộc sống
sôi động, lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại những lực lượng tự nhiên, xã hội của người Hy Lạp cổ đại.[3] Về nghệ thuật, đã để lại các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa có giá trị. Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp luật và được thực hiện khá nghiêm tại thành bang Athen.
Về khoa học tự nhiên, những thành tựu toán học, thiên văn, vật lý… được các nhà khoa học tên tuổi như Thalés, Pythago, Heraclite sớm phát hiện ra. Và đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di sản triết học vô cùng đồ sộ và sâu sắc.
CHƯƠNG 2 - ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC CỔ HY LẠP
2.1 - Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
Đỉnh cao của nền văn minh cổ đại đó chính là triết học Hy Lạp cổ đại, và cũng là điểm xuất phát của lịch sử thế giới. Nhìn chung triết học Hy Lạp có những đặc trưng sau:
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị.
- Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy vật - duy tâm, biện chứng - siêu hình, vô thần - hữu thần.
- Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
Đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác, hoang sơ.
- Coi trọng vấn đề về con người.
Triết học cổ Hy Lạp mang tính duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Tách ra khỏi yếu tố thần linh thống trị con người từ xưa, đỉnh cao của triết học cổ Hy Lạp là triết gia Socrate. Ông đã đề cập đến thân phận con người. Đa phần các triết gia có xu hướng hướng ngoại thì Socrate quay về hướng nội, ông đã đề cập đến đạo đức con người.
2.2 -Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại
Ta lần lượt xét một số nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại tiêu biểu:
2.2.1-Trường phái Milê
Trường phái triết học Milê là trường phái của các nhà triết học đầu tiên xứ Lonie, một vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp. Nằm chạy dài trên miền duyên hải Tiểu Á, nằm giữ huyết mạch giao thông, là cửa mở đi về phương Đông, và là trung tâm kinh tế, văn hóa của thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nơi đây được xem là quê hương của
nhiều trường phái triết học của triết gia nổi tiếng.
Trường phái này do ba nhà triết học lập nên như: Talet, Anaximăngđrơ và Anaximen. Đóng góp quan trọng nhất của trường phái này là đã đặc nền móng do sự hình thành các khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ xung và làm phong phú thêm những khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu
tranh của các mặt đối lập v.v… Một điều đáng quý nữa là các triết gia đã xuất phát từ thế giới để giải thích thế giới, khẳng định thế giới xuất phát từ một thời nguyên vật chất duy nhất.
Talet (624-547 tr.CN):
Các quan niệm:
Talet là một nhà triết học duy vật. thành tựu nổi bật của ông là quan niệm triết học duy vật. Ông cho rằng là nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật trong thế giới. Mọi vật đèu sinh ra từ nước và khi phân huỷ lại trở thành nước. Theo Talet vật chất (nước ) tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra đều biến đổi
không ngừng, sinh ra và chết đi. toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất mà nền tảng là nước.
Giá trị:
Quan niệm triết học của ông giới thiệu thế giới tuy còn thô sơ mộc mạc, nhưng đã có ý nghĩa vô thần, chống lại thế giới quan tôn giáo đương thời và chứa đựng những yếu tố biện chứng tự phát.
Hạn chế: Ông được gọi là nhà “triết học đầu tiên”, “toán học đàu tiên”, “thiên văn học đàu tiên”,. song nhà khoa học đầu tiên này chưa thể thoát khỏi ảnh hưởng của quan niệm thần thoại và tôn gioá nguyên thuỷ, điều này thể hiện ở chỗ; ông cho rằng thế giớ đầy dãy những vị thần linh và khi không thể giải thích được hiện tượng từ túnh của nam châm thì ông khẳng định rằng nó là linh hồn.
Anaximăngđrơ(610-546 tr.CN):
Các quan niệm:
Ông là nhà triết học duy vật là bạn của Talet. Khác với Talet khi giải quyết vấn đề bản thể luận triết học, ông cho rằng, cơ sở của sự hình thành vạn vật trong vũ trụ là từ một dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại một cách vĩnh viễn: đó là Apeiron. Các triết gia thời cổ đại đã có những giải thích khác nhau về Apeiron: đó là vật mang tính vật chất; là hỗn hợp của các yếu tố như đất, nước, lửa, không khí; là cái trung gian giữa lửa và không khí; là cái không xác định (Arixtôt). Apeirôn không chỉ là nguồn gốc sinh ra mọi vật mà còn là cơ sở vận động của vạn vật. Apeirôn là nguồn gốc sinh ra mọi cái, đồng thời là nguồn gốc và sự thống nhất của các sự vật đối lập nhau: nóng-lạnh, sinh ra- chết đi,... toàn bộ vũ trụ tồn tại như
một vòng tuần hoàn biến đổi không ngừng. Ông cũng tiên đoán về nguồn gốc sự sống, cho rằng, mọi vật trên trái đát đèu xuất hiện dưới biển sau đó một số lên trên cạn sinh sống. con người sinh ra từ một loài cá to, líc nhỏ sống dưới nước, sau đó lên trên cạn sinh sống
Giá trị:
Như vậy, so với Talet, Anaximăngđrơ có một bước phát triển xa hơn trong sự khái quát trừu tượng về phạm trù vật chất. ở Talet, vật chất đầu tiên là nước mang tính ít trừu tượng hơn so với ở Anaximăngđrơ là Apeirôn - một chất vô định hình mà người ta không thể trực quan thấy được. Lần đầu tiên trong lịch sử Hy Lạp cổ
đại, vật chất không bị đồng nhất với vật cụ thể. Đó là bước tiến mới trong tư duy trừu tượng của người Hy Lạp. Quan niệm về nguồn gốc sự sống của ông tuy là một quan niệm ngây thơ, chất phác, nhưng nó cũng có những tác dụng nhất định vào thời ấy, giúp chống lại thế giới quan tôn giáo đương thời.
Hạn chế: Cũng như Talet, chịu ảnh hưởng các quan niệm thần thoại và tôn giáo, khẳng
định điểm tận cùng giới hạn của thế giới. mọi sinh vật theo ông đèu sinh ra từ Apeirôn và có lỗi lầm với nhau những lỗi lầm của chúng phá vỡ các chuẩn mực và giới hạn của chúng. Mọi cái cuối cùng đều trở thành Apeirôn.theo nghĩa này, Apeirôn trở thành một cái ít nhiều mang tính thần bí.
Anaximen (585-525 tr.CN):
Là học trò của Anaximăngđrơ. đứng trên quan diểm duyvật chất phác, ông nghiên cứu thiên văn học và triết học. Đồng quan điểm với người thầy về thuyết địa tâm, ông cho rằng, mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú đều từ trái đát mà ra, do trái đất quay nhanh mà bắn ra xa, điều này đến nay đã bị bác bỏ nhưng ở thời ấy có giá trị lớn trong việc đấu tranh chống lại những quan điểm duy tâm, tôn giáo về vũ trụ về cuộc sống xã hội.Ông
cũng có những tiên đoán: trái đất có hình cái trống, tự xoay quanh mình nó, mưa đá là kết quả đóng thành băng của các tia nước trên cao, khi băng bị không khí làm tan ra thì thành tuyết.
Theo ông, không khí là nguồn gốc là bản chất của mọi cái là bản nguyên của thế giới, vì nó giữ vai trò quan trọng trong đời sống của tự nhiên và con người. ngay cả các vị thần cũng được sinh ra từ không khí. ông cho rằng, hơi thở chính là không khí, người ta không thể sống nếu không thở, tâm hồn con người rung động theo hơi thở mạnh, yếu. Không khí là cái vô định hình, mà bản thân Apeirôn cũng chỉ là một thuộc tính của không khí. không khí sinh ra mọi vật bằng hai cách loãng ra và cô đặc lại: không khí loãng thành lửa; đặc thành gió, mây; đặc nữa thành nước; đặc nữa thành đất, đá.
Giá trị và hạn chế:
Cũng như hai nhà triết học trên những quan niệm của ômg vẫn mang nặng tính ngây thơ, chất phác; nhưng nó phần nào cũng có giá trị nhất định trong thời kì đó.
Tóm lại: Trường phái triết học Milê là trường phái triết học duy vật. Họ quan tam cố gắng tìm ra một bản nguyên vật chất đẻ giải thích thế giới như một chỉmh thể thống nhất của các dự vật muôn màu, muôn vẻ. mặc dầu còn mộc mạc ngây thơ, song những quan niệm của họ đã đặt ra nèn móng cho sự phát triển của các tư tưởng duy vật trong thời kì về sau.
2.2.2-Trường phái Hªraclit : (520-460 tr. CN)
Do nhà ẩn dật Hêraclit sáng lập. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc chủ nô ở thành phố Ephetdơ. Ông sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ các tư tưởng biện chứng chất phát từ thời cổ Hy Lạp. Ông coi bản nguyên của thế giới là lửa. Vũ trụ không phải do Thượng Đế hay một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra, mà nó “đã” và “đang” sẽ mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và lụi tàn. Tàn lụi và bùng cháy theo cái logos tức là “quy luật, trật tự” nội tại của chính mình. Ông xem thế giới “vừa tồn tại vừa không tồn tại”, “không ai tắm hai lần trong một dòng sông”. Thế giới vật chất “vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa mang tính hài hòa vừa xung đột”. Như vậy, Hêraclit là nhà triết học đã nêu lên các phỏng đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà sau này Marx đã đề cập và đi
sâu. Phép biện chứng duy vật chất phát là đóng góp của triết học Hêraclit vào kho tàng tư tưởng của nhân loại. “Thế giới chỉ là ngọn lửa đang bập bùng cháy suốt ngày đêm”.
2.2.3-Trường phái đa nguyên
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật Empedocles ( 490 – 430 TCN ) và Anaxagoras ( 500 – 428 TCN ) cố vượt qua quan niệm đơn nguyên sự khai minh của các trường phái như Milet - trường phái Héraclite xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng.
Empedocles thừa nhận khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước, lửa và không khí. Anaxagorax cho rằng cơ sở đầu tiên của tất cả mọi sự vật là “những hạt giống”. Anaxagorax xem “ mọi cái được trộn lẫn trong mọi cái”. Tuy nhiên, quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, nghĩa là còn hạn chế. Những hạn chế này được thuyết phục bởi thuyết nguyên tử luận. Nhưng thuyết này vẫn còn sơ khai và nhận định bằng cảm tính.
2.2.4-Trường phái nguyên tử luận
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện trong trường phái nguyên tử luận thế kỷ 5 – 3 tr.CN. Lơxíp là người sáng lập và Démocrite là người kế thừa và phát triển.
Lơxíp (500-440 tr.CN):
Là người đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại nêu len học thuyết nguyên tử. Các tác phẩm trình bày học thuyết cảu ông không được lưu giữ, người ta biết đến qua người học trò Đêmôrít hoặc những trích dẫn ở các tác phẩm của các nhà triết học khác.
Các quan niệm: Ông tiếp thu quan điểm của Empecơlơ về đa khởi nguyên của vật chất, nhưng ông cho rằng khởi nguyên của vật chất không phải là 4 căn nguyên mà là vô số nguyên tử. Lơxíp cho rằng, mọi sự vật được cấu thành từ những nguyên tử. đó là những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó vô hạn về số lượng và vô hạn về hình thức: nó vô cùng bé, không thể thẩm thấu được, không có chất lượng. Các
nguyên tử chỉ khác nhau về kích thước và hình thức, sở dĩ có những sự vật khác nhau là vì có những hình thức sắp xếp khác nhau của các nguyên tử. Tán thành quan niệm về tồn tại của Pácmênít nheng khác với Pácmênít ở chỗ, ông không phủ nhận cái không- tồn tại. theo ông, cái không -tồn tại chính là khoảng
chân không -“không gian rỗng” nhờ có không gian rỗng này mà mà các nguyên tử và các vật thể có thể vận động, kết hợp và phân tán. ông hiểu sự vận động là sự thay đổi vị trí trong không gian. Lơxíp đã đè cập đén tính nhân quả tất yếu trên quan điểm luận duy vật, chống lạmục đích luận của chủ nghĩa duy tâm. ông khẳng định: “không mọt sự vật nào phát sinh một cách vô cớ mà tất cả đều phát sinh trên một căn cứ nào đấy, và do tính tất nhiên”.
Giá trị:
Ông là người đầu tiên nêu len học thuyết nguyên tử, đã đua triết học Hy Lạp cổ đại lên một tầm cao mới. Mà giá trị của học thuyết này vẫn còn đén ngày nay
Hạn chế: Tuy học thuyết của ông là một tiên đoán tuyệt vời, nhưng ông cũng không thể tránh khỏi những hạn chế như các nhà triết học thời trước, do trình độ khoa học thời này còn thấp, đó là triết học của ông mang nặng tính chất phác, thô sơ.
Đêmôcrit(460-370 tr.CN):
Là học trò giỏi của Lơxíp. ông đã đén Aicập, Babilon, Ânđộ tìm hiểu và đã tiếp xúc với những tri thức triết học xuất hiện ở phương đông cổ đại. ông hiểu xâu rộng nhiều lĩnh vực: triết học, đạo đức học, mỹ học, ngôn ngữ học, kỹ thuật, âm nhạc. những nhà nghiên cứu về Đêmôrít cho rằng, ông đã viết được 70 tác phẩm về các
lĩnh vực nói trên. theo đánh giá của Mác và Ăngghẻntong tác phẩm “Hệ tư tưởng đức”: Đêmôcrit là một bộ óc bách khoa đầu tiên trong số những người Hy Lạp.
Các quan điểm:
Quan điểm về bản chất thế giới: Đêmôcrít đồng quan điểm với Lơxíp - người thầy của mình và phát triển học
thuyết nguyên tử lên một trình độ mới. ông cho rằng, nguyên tử và khoảng không là cơ sở cấu tạo nên mọi vật; nguyên tử là hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy, không phân chia được, không mùi vị, không âm thanh, không màu sắc không có sự khác nhau về chất mà chỉ có sự khác nhau về hình thức, trật tự và tư thế.
Ông cho rằng, mỗi nguyên tử có một hình thức nhất định, nguyên tử không những vô hạn về số lượng mà còn vô hạn về hình thức; mọi sự vật đều được cấu thành từ các nguyên tử, sự kết hợp đó không phải lad tuỳ tiện, ngẫu nhiên mà kết hợp theo quy luật trật tự, cũng như bảg chữ cái, từ đó thực hiện sự kết hợp theo thứ
tự nhất định tạo thành từ. Nguyên tử cũng khác nhau về tư thế, giống như tư thế của các chữ cái.sự vật khác nhau là do sự vật được cấu tạo từ những hình thức khác nhau; sự sắp xếp theo trật tự khác nhau; và được xoay đặt theo những tư thế khác nhau. Mọi sự biến đổi của sinh vật thực chất là sự bién đổi trình tự sắp xếp của các nguyên tử tạo nên chúng, còn bản thân nguuyên tử - hạt vật chất nhỏ nhất thì không thay đổi gì cả. ở đây một mặt, Đêmôcrit tán thành lý thuyết “tồn tại” duy nhất bất biến của Patmênit, coi nguyên tử là bất biến; mặt khác ông kế thừa quan điểm của Hêraclit cho rằng mọi sự vật không ngừng biến đổi.
Nếu như các nhà triết học phái Elê phủ nhận sự tồn tại thực của cái không tồn tại, thì Đêmôcrit và các nhà nguyên tử luận khẳng định sự tồn tại của cái không - tồn tại. theo nhận xét của Arixtôt thậm chí còn cho rằng “cái tồn tại có thực không hơn gì cái không tồn tại, bởi vì sự vật tồn tại không mảy may hơn gì khoảng không
và cả hai đều có nguyên nhân vật chất”. Cái không - tồn tại chính là khoảng không trống rỗng, nó không chịu ảnh hưởng gì các sự vật (tức cái tồn tại) trong nó cả. Giữa tồn tại và không tồn tại có những đặc tính khác nhau. Các nguyên tử thì đậm đặc hoàn toàn, còn khoảng không lại hoàn toàn trống rỗng. Các nguyên tử thì
rất đa dạng trong khi khoảng không lại thuần nhất. Các nguyên tử bao giờ cũng có kích thước hình dạng nhất định (Đemôcrit chưa đạt đến quan niệm nguyên tử có khối lượng) nhưng khoảng không lại vô tận và không có hình dạng nào cả. Ông đã nêu ra lý thuyết về vũ trụ học. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lý luận nguyên tử về cấu tạo của vật chất, thấm nhuần tư tưởng biện chứng tự phát và có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử triết học. Theo ông, dẹ xuất hiện cảu vô số những thế hình thành vũ trụ và tất cả những biến đổi xảy ra trong tự nhiên đèu là sự kết hợp khác nhau (tật hợp, phân tán ) cuả những nguyên tử vận động trong chân
không và tuân theo tính tất nhiên của tự nhiên. trong không gian vô tận của vũ trụ, những nguyên tử vận động, rung chuyển về mọi phía, xô đi đảy lại lẫn nhau và làm thành những cơn lốc nguyên tử, đẩy các nguyên tử nặng to vào tâm, các nguyên tử nhẹ và nhỏ hơn ra vùng ngoại biên, nhờ đó các hành tinh và cả trái đất được hình thành. Sự kết hợp trong cơn lốc đó như làn sóng biển đánh vào bờ, làm cho những viên đá có hình thù cùng loại (dài, tròn) dồn thành từng đám từng lớp trên bãi biển. Do các vận động đó các nguyên tử có cùng một kích thước, cùng một hình thức kết hợp với nhau tạo thành: lửa, đát, nước, không khí. Trong thế giới mọi sự vật đều luôn luôn quy tụ về trung tâm do trọng lượng của chúng. Đemôcrit khẳng định: vũ trụ vô tận và vĩnh viễn, có vô số thề giới vĩnh viễn phát sinh phát triển và bị tiêu diệt.
Quan niệm về sự vận động: Quan điểm của Đemôcrit về vận động, gắn liền với vật chất là một phoán
đoán thiên tài có giá trị đặc biệ. Theo ông vận động của nguyên tử là vĩnh viễn, và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên tử ở bản thân nguyên tử, ở động lực tự thân, tự nó, còn khoảng trống chân không là điều kiện vận động của nó. Tuy nhiên, Đêmôcrit đã không lý giải được nguồn gốc của sự vận động.
Quan điểm về tất nhiên và ngẫu nhiên: Dưa trên học thuyết nguyên tử, Đêmôcrit đã đi tới quan điểm quyết định luận. đó là sự nhận thức sự ràng buộc theo luật nhân quả, tính tất nhiên và tính khác
quan của các hiện tượng tự nhiên. đay là quan điểm có giá trị của ông đóng góp cho nền triết học Hy Lạp cổ đại. theo Arixtôt: “Đêmôcrit”sau khi đã gạt bỏ [cái nguyên nhân] có tính mục đích, bèn đem tất cả những mà tự nhiên sử dụng về tính tất yếu. Song, ông lại phủ nhận cái ngẫu nhiên, cho rằng, ngẫu nhiên là vô lý, do sự
không biết của con người sinh ra; trên thực tế về cơ bản chỉ tồ tại cái tất nhiên; trong cuộc sống nếu chỉ dựa vào cái ngẫu nhiên thì chỉ làm cho con người thêm lười biếng.
Nhân bản học: ông phê phán quan niệm cho rằng, sự sống do thần thánh sinh ra. Theo ông, sự sống là kết quả của quá trình vận động của bản thân tự nhiên, được phát sunh từ những vật thể ẩm ướt, dưới tác động của nhiệt độ. Nước và bùn là hai môi trường nảy sinh sự sống, sự ssống xuất hiện dưới nước sau ó len cạn. trải qua một quá trình lau dài từ những sinh vật không tay, không chân, đến những sinh vật 4 chân, hai
chân, có tay, có mắt rồi xuất hiện con người. Sinh vật khác với con người ở chỗ: sinhvật không có linh hồn giống như con người. Trong cơ thể con người có nhiều nhiệt lượng hơn và các chất cấu tạo thành nó sạch sẽ hơn so với động vật. Do sự hạn chế của khoa học thời bấy giờ, Đêmôcrit thừa nhận rằng trong con người có một phần bản chất thiên thần. ông định nghĩa con người là một động vật nhưng về bản tính có khả năng học được bất cứ cái gì, có chân có tay, cảm giác và sự năng động của trí tuệ.
Theo ông, linh hồn được cấu tạo từ những nguyên tử hìh cầu, giống như nguyen tử của lửa, và vận động với tốc độ lớn. Nguyên tử linh hồn sinh ra nhiệt, nhiệt làm cho toàn bộ cơ thể hưng phấn và vận động. Song ông lại coi linh hồn không phải là một hiện tượng tinh thần, ý thức mà là một hiện tượng vật chất. ông bác bỏ quan niệm tôn giáo về linh hồn cho rằng linh hồn bất tử và cho rằng linh hồn có thể chết cùng với cái chết của con người.
Nhận thức luận: Đêmôcrit cho rằng trên thực tế chỉ tồn tạ các sinh vật khác quan do nguyên tử tạo ra, còn tất cả những ccái như mùi vị, màu sắc, âm thanh.. chỉ tồn tại trong cảm nhận của con người, là kết quả tác động của các nguyên tử lên các giác quan của chúng ta. Khác với các nhà triết học trước đây phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, ông chia nhận thức của con người thành hai dạng: nhận thức mờ tối là dạng nhận thức cảm tính, do các giác quan đem lại; và dạng nhận thức chân lý thông qua những phoán đoán lôgic, đó là dạng nhận thức được bản chất của sự vật.
Hai dạng nhận thức trên có liên hệ chặt chẽ với nhau và đều có vai trò quan trọng, nhưng dạng nhận thức chân lý đáng tin cậy hơn. đêmôcrit gọi dạng nhận thức mờ tối là nhận thức theo “dư luận chung”; vì theo ông những cảm giác như mùi vị, màu sắc, âm thanh là những cảm giác phổ biến mà mọi người đều cảm nhận được một cách dễ dàng khi nhận thức. đó là nhận thức chân thực nhưng còn mờ tối vì chưa nhận thức được cái bên trong, cái sâu kín cảu sự vật. chỉ có dạng nhận thức chân lý mới có khả năng nhậm thức được bản chất của sự vật. Vì thế, con người không thể dừng lại ở nhận thức mờ tôi mà phải đi sâu hơn đẻ nhận thức được cái bản chất sự vật, đó là chức năng của nhận thức chân lý. Trong lý luận nhận thức của mình, Đêmôcrit đã nêu ra khái niệm “hình tượng” hay còn gọi là “Iđôlơ”. mác đã giải thích “Iđôlơ” của Đêmôcrit là cái vỏ hình thức của vật thể bị tách khỏi vật thể, nhưng hình thức đó bắt nguồn từ chính vật thể rồi xâm nhập vào cảm giác và được ước lệ thành hình tượng khác thể. Iđôlơ đóng một vai rò quan trọng trong lý luận nhận thức của Đêmôcrit. Nhưng Iđôlơ hay “hình tượng” cảm tính là tiền đề, là tái hiện đẻ lý tính nhạn thức chân lý. Nhưng ông cho rằng, nhận thức chân lý là khó khăn vì “thực ra chúng ta khôn biết gì hết, vì rằng chân lý ở sâu kín”. Ngoài ra: Ông đã đóng vai trò quan trọng trong chủ nghĩa vô thần. ông cho rằng, sở dĩ
người ta có quan niệm sai lầm cho là có thần là vì con người bị ám ảnh bởi những hiện tượng khủng khiếp trong tự nhiên. theo ông, khi quan sát những hiện tượng tự nhiên như sấm, chớp, sao băng, nhật thực, nguyệt thực, con người không lý giải được nên sợ hãi, coi đó là tai hoạ do thần thánh gây ra. Những thần thánh tôn giáo Hy Lạp chỉ là sự nhân cách hoá những hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính của nó;
mặt trời mà tôn giáo đã thần thánh hoá, chỉ là một khối lửa, thần dớt (zeus) là sự nhân cách hoá mặt trời; thần Atêna là sự nhân cách hoá lý tính của con người. ông kiên quyết chống lại mọi điều bịa đặt về sáng thế của thần thánh. Quan niệm vô thần cảu ông có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm có ý nhĩa tiến bộ và có vai trò lịch sử to lớn. Ông còn có đóng góp về lôgic học, đạo đức học, chính trị- xã hội. ông đã có công lao đặt nền móng cho lôgic học, với tác phẩm “bàn về lôgic học”, ông đã nêu
ra nhiều vấn đề về lôgic học như những định nghĩa khái niệm, phương pháp quy lạp, so sánh, giả thiết, trong đó phương pháp quy lạp chiếm vị trí trung tâm. Đêmôcrit cũng có những quan điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Về chính trị xã hội ông đứng trên lập trường của tầng lớp chủ nô, đấy tranh chống lại bọn chủ nô quý tộc
bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô.
Giá trị:
Với những thành tựu rực rỡ của mình, Đêmôcrit đã đưa chủ nghĩa duy vật lên một đỉnh cao mới: Học thuyết nguyên tử của ông là một tien đoán thiên tài mà cho đến nay nó vẫn giữ nguyên giá trị, các nhà khoa học hiện đại đã chứng minh một số quan điểm của ông là đúng. Ngoài ra quan điểm về nguồn gốc vũ trụ cũng có một số giá trị nhất định. Tuy dưới ánh sáng của khoa học, thì quan niệm của Đêmôcrit là sai lầm; nhưng nó đã góp phần chống lại thế giới quan tôn giáo, duy tâm đang thống trị thời đó.
Quan điểm về vận động của ông cũng là một phoán đoán có giá trị đặc biệt. Theo đó ông đã đi tìm nguồn gốc của sự vật động ở trong chính thế giới vật chất. đây là một quan điểm đúng đắn mà sau này các nhà triết học Macxit đã công nhận. Quan điểm quyết định luận cũng là một quan điểm của ông có giá trị đã đóng
góp cho nền triết học Hy Lạp cổ đại. quan điểm này đã chống lại quan điểm mục đích luận, thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Về quan điểm nguồn gốc của con người cũng có giá trị nhất định. Nó cũng chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông đã đưa lý luận nhận thức duy vật lên một bước mới. Khác với các nhà triết học trước, Đêmôcrit không phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính, tuyết đối hoá vai trò của lý tính. đây cũng là một quan điểm đúng đắn mà sau này các nhà triết học Macxit cũng công nhận.
Ngoài ra, các quan niệm của ông còn có vai trò quan trọng trong chủ nghĩa vô thần, đó là những quan điểm về nguồn gốc, phủ nhận sự tồn tại của thần linh. Hạn chế: Tuy có nhiều thành tựu rực rỡ, nhưng triêt học của Đêmôcrit vẫn có nhiều hạn chế không thể tránh khỏi:
Triết học của Đêmôcrit vẫn thể hiện tính chất thô sơ chất phác, thể hiện tư duy trực quan, cảm tính, thể hiện trong các quan niệm về nguyên tử, linh hồn con người, về nguồn gốc của vũ trụ, về nguồn gốc bản chất của con người, thần thánh,...Trong quan niệm về sự vận động của vật chất, tuy đã có những giá trị đạt
được nhưng ông chưa thể giải thích được nguồn gốc của sự vận động. Khi nói về cai tất yếu và cái ngẫu nhiên, ông đã phủ nhận cái ngẫu nhiên nho rằng cái ngẫu nhiên là không tồn tại. đây là một quan điểm sai lầm vì rằng cái ngẫu nhiên vẫn tồn tại bên cạnh cái tất nhiên.
Epiquya (341-297 tr.CN):
Triết học của Eiquya gồm ba bộ phận: vật lý học, lôgic học và đạo đức học.
ông kiên quyết bác bỏ thuyết duy tâm và lý luận thần học, bảo vè chủ nghĩa duy vật
và học thuyết vô thần của Đêmôcrit.
Nội dung bài viết:
Bình luận