Tổng hợp tiểu luận triết học chủ nghĩa duy vật biện chứng

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là một thuật ngữ quen thuộc trong triết học. Đây cũng chính là một trong số những hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật được C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng có những vai trò và ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn. Tuy nhiên, hiện nay còn rất nhiều người chưa hiểu rõ về chủ nghĩa duy vật biện chứng. Dưới đây là Tổng hợp tiểu luận triết học chủ nghĩa duy vật biện chứng của ACC sẽ cung cấp cho bạn đọc một số thông tin về chủ nghĩa duy vật biện chứng.

002 22716 1 305
Tổng hợp tiểu luận triết học chủ nghĩa duy vật biện chứng

1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là gì?

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm được biết đến là hai trường phái triết học lớn trong lịch sử triết học, giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm có sự đối lập căn bản trong quan niệm về nguồn gốc, bản chất và tính thống nhất của thế giới.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng được biết đến chính là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới được ra đời  đã có vai trò quan trọng và giúp có thể khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật.

Theo quan điểm duy vật thì nguồn gốc, bản chất và tính thống nhất của thế giới là vật chất, còn theo quan điểm duy tâm thì đó là ý thức (hay tinh thần).

Ta nhận thấy rằng, chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà chủ nghĩa duy vật biện chứng còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.

Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng chính là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học; là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Triết học Mác – Lênin về bản chất chính là triết học duy vật, bởi triết học đó coi ý thức là tính chất của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người và nhiệm vụ của bộ não người đó chính là phản ánh giới tự nhiên. Sự phản ánh đó sẽ có tính biện chứng, bởi vì thông qua đó mà con người nhận thức được mối quan hệ qua lại chung nhất giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất; bên cạnh đó cũng sẽ nhận thức được rằng, sự vận động và phát triển của thế giới là kết quả của các mâu thuẫn đang tồn tại bên trong thế giới đang vận động đó.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng như đã phân tích cụ thể ở trên chính là hình thức cao nhất trong các hình thức của chủ nghĩa duy vật. Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể hiện ở các khía cạnh sau: Giải quyết duy vật biện chứng vấn đề cơ bản của triết học; Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ là phương pháp giải thích, nhận thức thế giới, mà chủ nghĩa duy vật biện chứng còn là phương pháp cải tạo thế giới của giai cấp công nhân trong quá trình cải tạo và xây dựng xã hội; Quan niệm duy vật về lịch sử là cuộc cách mạng trong học thuyết về xã hội; Sự thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng, lý luận với thực tiễn tạo nên tính sáng tạo của triết học Mác – Lênin.

2. Phép biện chứng duy vật

Phép biện chứng duy vật là lý luận khoa học về các mối liên hệ phổ biến về sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng, là những quy luật chung nhất, phổ biến nhất của mọi quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý cơ bản; sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản.

Phép biện chứng duy vật gồm có hai nguyên lý cơ bản:

– Thứ nhất là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:  Thế giới có vô vàn các sự vật, hiện tượng nhưng chúng tồn tại trong mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với nhau; tức là chúng luôn luôn tồn tại trong sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm biến đổi lẫn nhau.

+ Mặt khác, mỗi sự vật hay hiện tượng của thế giới cũng là một hệ thống, được cấu thành từ nhiều yếu tố, nhiều mặt… tồn tại trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, chi phối và làm biến đổi lẫn nhau. Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng rất đa dạng, muôn hình, muôn vẻ. Có mối liên hệ bên trong là mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật hay một hệ thống. Có mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa vật này với vật kia, hệ thống này với hệ thống kia. Có mối liên hệ chung, lại có mối liên hệ riêng. Có mối liên hệ trực tiếp không thông qua trung gian lại có mối liên hệ gián tiếp, thông qua trung gian. Có mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên; mối liên hệ cơ bản và không cơ bản

– Thứ hai là nguyên lý về sự phát triển: Mọi sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển không ngừng. Vận động và phát triển không đồng nghĩa như nhau. Có những vận động diễn ra theo khuynh hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Có khuynh hướng vận động thụt lùi, đi xuống nhưng nó là tiền đề, là điều kiện cho sự vận động đi lên. Có khuynh hướng vận động theo vòng tròn, lặp lại như cũ.

+ Phát triển là khuynh hướng vận động từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện theo chiều hướng đi lên của sự vật, hiện tượng; là quá trình hoàn thiện về chất và nâng cao trình độ của chúng. Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới và nó có tính phổ biến, được thể hiện trên mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.

3. Các giai đoạn phát triển của phép biện chứng duy vật

- Phép biện chứng tự phát thời cổ đại

Các nhà biện chứng cả phương Đông lẫn phương Tây thời kỳ này đã thấy các sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô tận cùng tận.

Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng hồi đó được chỉ là trực kiến, chưa phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.

- Phép biện chứng duy tâm

Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện trong triết học cổ điẻn Đức, người khởi đầy là I.Kant và người hoàn thiện là Hêghen.

Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử tư duy phát triển của nhân loại, các nhà triêt học Đức đã trình bày một cách có hệ thônhs trong những nội dung quan trọng nhất của phép biện chứng.

Song theo họ biện chứng ở đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm nên biện chứng của các nhà triết học cổ diển Đức là biện chứng duy tâm.

- Phép biện chứng duy vật

Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong triêt học do Mác và Ăngghen xây dựng, sau đó được Lenin phát triển.

Mác và Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn thiện nhất.

Trên đây là nội dung giới thiệu của chúng tôi về Tổng hợp tiểu luận triết học chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng như các vấn đề pháp lý khác có liên quan trong phạm vi này. Trong quá trình tìm hiểu nếu quý khách hàng còn thắc mắc hay quan tâm và có nhu cầu tư vấn và hỗ trợ vui lòng liên hệ với chúng tôi.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo