Lời mở đầu
Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội. Trong đó, luật hình sự là một ngành luật đặc biệt của hệ thống pháp luật nước ta, nó xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và quy định hình thức xử lý hình sự; cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự, cũng như hình phạt, biện pháp tư pháp và các chế định pháp lý hình sự khác…. Trong luật hình sự, bản chất của tội phạm được phản ánh qua bốn yếu tố cấu thành tội phạm, bốn yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và được xem là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người phạm tội. Theo khoa học luật hình sự Việt Nam, bất cứ hành vi phạm tội nào, dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng thì giữa những biểu hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là hoạt động của con người cụ thể, xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ xã hội nhất định.
Chính vì vậy, trong thực tiễn do những lý do chủ quan hoặc khách quan khác nhau mà việc xác định chính xác các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm chưa rõ ràng cụ thể, thiếu thống nhất dẫn đến tình trạng người tiến hành tố tụng hiểu sai, áp dụng sai trong định tội danh và quyết định hình phạt. Từ đó, làm cho hiệu quả, chất lượng giải quyết vụ án hình sự hạn chế, tình trạng xét xử oan, sai đối với người thực hiện hành vi hay bỏ lọt tội phạm vẫn tiếp diễn; nhiều vụ án hình sự không được giải quyết theo trình tự luật định, tình trạng tồn đọng án đang có dấu hiệu gia tăng, v.v… Chính vì vậy việc nghiên cứu “Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự về các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm” là cần thiết, khách quan, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam làm Tiểu luận luật hình sự
Nội dung
1. Lý luận chung về tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
– Khái niệm tội phạm
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tội phạm được quy định như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
– Các yếu tố và dấu hiệu để cấu thành tội phạm hình sự
Các yếu tố và dấu hiệu để cấu thành tội phạm hình sự bao gồm:
Nhóm dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm: Các dấu hiệu này được quy định rõ ràng trong luật hình sự và bắt buộc phải có đối với mọi tội phạm, cụ thể bao gồm: mặt khách thể của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm và mặt chủ thể của tội phạm.
Nhóm các dấu hiệu không bắt buộc của cấu thành tội phạm. Các dấu hiệu này chỉ có ở những tội phạm cụ thể đã được quy định rõ ràng trong luật hình sự chứ không bắt buộc phải có ở mọi tội phạm. Các dấu hiệu đó bao gồm: hậu quả của hành vi phạm tội; động cơ và mục đích phạm tội; dấu hiệu đặc biệt của chủ thể đặc biệt.
2. Quy định của pháp luật hình sự về các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
Các dấu hiệu này được quy định rõ ràng trong luật hình sự và bắt buộc phải có đối với mọi tội phạm, cụ thể bao gồm: mặt khách thể của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm và mặt chủ thể của tội phạm.
– Mặt khách thể của tội phạm là những mối quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mà bị tội phạm xâm hại, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Chẳng hạn như phạm tội gây thương tích cho người khác tức là đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ sức khỏe của nạn nhân. Khách thể tội phạm có 3 loại: khách thể chung của tội phạm, khách thể loại của tội phạm và khách thể trực tiếp của tội phạm.
– Yếu tố chủ thể của tội phạm là người gây ra những hành vi phạm tội có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi quy định theo quy định của Pháp luật để chịu trách nhiệm về hành vi mà mình đã gây ra. Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ có người có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Theo Luật hình sự Việt Nam, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 Bộ luật hình sự 2015) và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21 Bộ luật hình sự 2015). Tiểu luận luật hình sự dấu hiệu tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
Có thể thấy, pháp luật hình sự không quy định cụ thể thế nào là có năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và quy định trường hợp trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo đó, Điều 12 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật hình sự có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật hình sự.

Cũng tại Điều 21 Bộ luật hình sự quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy có thể thấy, luật hình sự Việt Nam mặc định thừa nhận những người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nói chung và không thuộc các trường hợp tại Điều 21 Bộ Luật hình sự 2015 là có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo đó, các trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự đã được quy định khá cụ thể tại Điều 21 Bộ luật hình sự 2015. Có hai dấu hiệu chính để xác định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: Dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý.
+ Về dấu hiệu y học: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.
+ Về dấu hiệu tâm lý: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người đã mất năng lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện, là người không có năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên làm. Theo đó, họ không thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Ngoài ra, nếu người đó có năng lực nhận thức cũng như khả năng điều khiển hành vi của mình nhưng do các xung đột bệnh lý không thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi đó thì vẫn được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Bên cạnh tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, luật hình sự còn thừa nhận trường hợp hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự. Đây là trường hợp do mắc bệnh nên năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi bị hạn chế. Người bị hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự có ảnh hưởng nhất định đến mức độ lỗi. Lỗi của họ cũng là lỗi hạn chế. Do đó, luật hình sự Việt Nam coi tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế là tình tiết giảm nhẹ. Tiểu luận luật hình sự dấu hiệu tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
– Yếu tố khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của người phạm tội. Bất kỳ tội phạm nào cũng được thể hiện ra bên ngoài, phản ánh trong thế giới khách quan. Mặt khách quan của tội phạm có những dấu hiệu như hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả tác hại do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả tác hại, thời gian, địa điểm, phương pháp, phương tiện và công cụ thực hiện tội phạm.
Trong số các dấu hiệu của mặt khách quan, dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc phải có ở mọi tội phạm. Nếu không có hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không có tội phạm, vì vậy Điều 8 Bộ luật Hình sự quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ có hành vi nguy hiểm cho xã hội mới gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là cách xử sự nguy hiểm của chủ thể, xâm phạm các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Hành vi ấy bị Luật Hình sự cấm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bằng phương pháp hành động hoặc không hành động.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có đặc điểm chung giống nhau là tính chất nguy hiểm, tính chất do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện xâm phạm đến quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Tội phạm trong Bộ luật Hình sự rất đa dạng nên hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đa dạng. Có hành vi nguy hiểm mang tính chất đơn lẻ, để thực hiện tội phạm người phạm tội chỉ cần thực hiện một hành vi do pháp luật quy định. Có hành vi nguy hiểm cho xã hội mang tính chất tội ghép, để thực hiện tội phạm người phạm tội phải thực hiện nhiều hành vi, nói cách khác tội ghép là tội được thực hiện bằng nhiều hành vi như tội cướp tài sản. Người phạm tội cướp tài sản thực hiện một lúc hai hành vi dùng vũ lực, hoặc đe dọa dùng vũ lực, hoặc dùng thủ đoạn khác và hành vi thứ hai là chiếm đoạt tài sản. Có hành vi nguy hiểm mang tính chất liên tục được gọi là tội liên tục. Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hàng loạt hành vi phạm tội cùng loại, mỗi hành vi phạm tội có tính chất nhỏ lẻ, nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, tuy nhiên khi gộp lại toàn bộ các hành vi, thì tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội đáng kể. Trong thực tế, đấu tranh chống tội phạm cũng như quy định của Bộ luật Hình sự còn có hành vi kéo dài gọi là tội kéo dài như tội trốn khỏi nơi giam giữ, tội tàng trữ vũ khí trái phép, tàng trữ các chất ma túy. Tội phạm chỉ chấm dứt khi bị phát hiện hoặc người phạm tội tự thú.
Hậu quả tác hại của tội phạm là một trong các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm, là thiệt hại do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra cho quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ, gồm thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần. Thiệt hại vật chất là những thiệt hại đo đếm, xác định được mức độ nhất định như chết người, gây thương tích với tỷ lệ % tổn hại sức khỏe, thiệt hại tài sản được quy ra bằng tiền v.v… Thiệt hại tinh thần là những thiệt hại khác mà không xác định được lượng mức độ thiệt hại như tội vu khống, tội làm nhục người khác, tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội v.v. Tiểu luận luật hình sự dấu hiệu tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
Hậu quả tác hại có ý nghĩa quan trọng để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Hậu quả tác hại càng lớn thì mức độ nguy hiểm của tội phạm càng cao. Hậu quả tác hại của tội phạm có ý nghĩa xác định giai đoạn hoàn thành của tội phạm. Tội có cấu thành vật chất được coi là hoàn thành khi hành vi nguy hiểm đã gây ra hậu quả tác hại. Tội có cấu thành hình thức được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội theo quy định của điều luật cụ thể trong Bộ luật Hình sự.
Dấu hiệu thời gian, địa điểm trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm chỉ ra rằng tội phạm có thật ở thời gian, địa điểm nhất định. Đây là một trong những vấn đề buộc phải chứng minh trong vụ án hình sự. Phần lớn các tội phạm trong Bộ luật Hình sự không quy định thời gian, địa điểm, nên dù tội phạm xảy ra trong thời gian nào hoặc địa điểm bất kỳ nào đều không ảnh hưởng đến việc định tội. Trừ những tội phạm cụ thể của Bộ Luật Hình sự có quy định thời gian, địa điểm, thì thời gian, địa điểm là dấu hiệu đặc trưng, bắt buộc phải có để định tội ví dụ như tội buôn lậu phải có địa điểm là qua biên giới, tội làm chết người trong khi thi hành công vụ phải có thời gian là đang thi hành công vụ v.v…
Phương pháp, công cụ thực hiện tội phạm là một trong những dấu hiệu khách quan. Phần lớn các tội trong Bộ luật Hình sự không quy định phương pháp, công cụ là dấu hiệu đặc trưng để định tội, nên trường hợp này dấu hiệu phương pháp, công cụ không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên trong Bộ luật Hình sự có một số tội phạm quy định phương pháp, công cụ của tội phạm là dấu hiệu đặc trưng để định tội như điểm a, khoản 1 Điều 104: dùng hung khí nguy hiểm gây thiệt hại cho nhiều người; điểm a khoản 1 Điều 93 quy định giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người v.v. Như vậy, dấu hiệu phương pháp, công cụ của tội phạm là một trong các dấu hiệu phải được chứng minh trong vụ án hình sự, tuy nhiên, để định tội cần tuân theo quy định của các điều luật.
– Yếu tố chủ quan của tội phạm là những biểu hiện bên trong của người thực hiện hành vi phạm tội như thái độ, tâm lí khi phạm tội động cơ, mục đích phạm tội,….
Lỗi là một trong những dấu hiệu quan trọng trong mặt chủ quan, là nội dung cơ bản thể hiện mặt chủ quan của cấu thành tội phạm, không xác định được lỗi thì không thể cấu thành tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm được biểu hiện thông qua ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội.
Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như khả năng gây ra hậu quả từ hành vi đó. Lỗi luôn đi kèm với hành vi phạm tội. Lỗi gồm có hai loại: Lỗi cố ý và lỗi vô ý. Trên cơ sở ý chí và lý trí của chủ thể vi phạm pháp luật mà khoa học pháp lý cũng phân biệt lỗi cố ý gồm 2 hình thức: lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý cũng có 2 hình thức: lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi trong trường hợp người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện và đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Lỗi vô ý do cẩu thả là việc người thực hiện hành vi phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hiểm, hoặc phải thấy trước hậu quả nguy hiểm, có thể thấy trước hậu quả.
3. Thực tiễn áp dụng pháp luật và một số kiến nghị
3.1. Thực tiễn áp dụng và hạn chế của luật hình sự
Hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả khi áp dụng pháp luật khi xác định các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm. Tu nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế:
– Một số bất cập trong xác định mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Trên thực tế, có hai trường hợp rất dễ gây nhầm lẫn như đối với tội giết người chưa đạt với tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người. Về mặt khách quan thì giữa giết người chưa đạt với cố ý gây thương tích rất giống nhau nhưng về mặt chủ quan thì giết người chưa đạt là người phạm tội mong muốn nạn nhân chết nhưng hậu quả không xảy ra là ngoài ý muốn của họ, còn hành vi cố ý gây thương tích thì người phạm tội chỉ muốn gây thương tích cho người khác chứ không muốn gây hậu quả làm chết người.
Để xác định chính xác ý thức chủ quan này, cơ quan tố tụng phải đánh giá, đối chiếu, phân tích các tình tiết khách quan một cách toàn diện. Tương tự, hành vi giết người và cố ý gây thương tích dẫn đến chết người cũng phải phân tích mặt chủ quan để xác định. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan được coi là phương pháp để xác định mặt chủ quan của người gây án. Chẳng hạn như dùng công cụ, phương tiện gì phạm tội, mức độ nguy hiểm của công cụ, phương tiện đó ra sao; cách thức thực hiện tội phạm, dấu vết để lại trên cơ thể nạn nhân. Cần phải kết hợp những dấu hiệu đó với những tình tiết khác như trình độ nhận thức, độ tuổi của người phạm tội, nạn nhân, tính tình thường ngày, mối quan hệ giữa người phạm tội và nạn nhân… Tiểu luận luật hình sự dấu hiệu tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
– Về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Hiện nay, theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Bộ Luật hình sự, tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Như vậy, tại khoản 1 Điều 13 Bộ luật hình sự quy định người bị mắc bệnh là bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Cho đến nay luật chưa có giải thích chính thức nào về trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã thừa nhận một người không có năng lực trách nhiệm hình sự khi họ mắc một trong các bệnh sau: bệnh tâm thần kinh niên, bệnh loạn thần, bệnh si ngốc, các bệnh gây rối loạn tinh thần tạm thời.
Mặt khác, ở nước ta hiện nay, những kiến thức về tâm thần học trong nhân dân và ngay trong đội ngũ cán bộ y tế còn hạn chế, chưa đáp ứng được sự đòi hỏi về phòng và chữa bệnh tâm thần cũng như việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự đối với người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Có nhiều trường hợp, có những kết luận trái ngược nhau về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự giữa các hội đồng giám định tâm thần làm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không chính xác. Thậm chí có trường hợp kết luận của hội đồng giám định không được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận vì kết luận đó thiếu cơ sở khoa học, không phù hợp với trạng thái tâm thần của người phạm tội.
– Về yếu tố lỗi trong luật hình sự, trong thực tiễn xét xử hiện nay, đối với các vụ án hình sự có yếu tố lỗi có hai loại khác nhau mà Tòa án phải lưu ý khi xét xử. Loại thứ nhất là các vụ án bị cáo bị truy tố theo tội danh mà dấu hiệu lỗi trong cấu thành tội phạm là lỗi vô ý. Đối với loại này, tình tiết “người bị hại cũng có lỗi” có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết định loại và mức hình phạt đối với bị cáo, cũng như giải quyết vấn đề bồi thường dân sự. Loại thứ hai là các vụ án bị cáo bị truy tố theo tội danh mà dấu hiệu lỗi trong cấu thành tội phạm là lỗi cố ý. Đối với loại này, tình tiết “người bị hại cũng có lỗi” không có quá nhiều ý nghĩa trong việc giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo và không phải căn cứ giải quyết vấn đề bồi thường dân sự.
– Về đồng phạm và các hành vi liên quan đến đồng phạm. Trong thực tiễn, Bộ luật hình sự đã có những sửa đổi, bổ sung lớn cả về chính sách hình sự lẫn kỹ thuật lập pháp, trong đó có quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, có đặt ra vấn đề đồng phạm ở các tội do pháp nhân thương mại thực hiện hay không, nếu có thì thực hiện theo cơ sở, nguyên tắc nào, đây là vấn đề mà Luật hình sự chưa làm rõ.
Như vậy, trong quá trình áp dụng pháp luật các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng pháp luật hình sự một cách có hiệu quả, đảm bảo tính khách quan, chính xác và phù hợp. Đồng thời qua áp dụng pháp luật cũng cho thấy những bất cập, hạn chế mà pháp luật còn gặp phải ảnh hưởng đến quá trình xác định khung hình phạt của tội phạm. Từ đó làm rõ những nguyên nhân và đưa ra các giải pháp phù hợp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong thời gian tới.
3.2. Nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập
– Ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận quần chúng nhân dân chưa cao, nhiều người dân phạm tội mà không biết được hành vi của mình là nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
– Vẫn còn nhiều nội dung liên quan đến các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm quy định còn chung chung, dẫn đến khó khăn cho cơ quan thực thi pháp luật trong xác định và chứng minh hành vi phạm tội.
– Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật đã được triển khai nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu thực tế, nhất là đối với những vùng núi, nông thôn, dẫn đến người dân không hiểu và chưa chấp hành tốt pháp luật.
– Một số cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực sự nêu cao ý thức trách nhiệm và thẩm quyền của mình.
– Chưa có mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất giữa các cơ quan thực thi pháp luật; việc xác định thẩm quyền chưa cụ thể, rõ ràng dẫn đến khó khăn trong trao đổi thông tin, phối hợp giải quyết vụ án.
– Điều kiện và cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử còn hạn chế.
3.3. Một số kiến nghị
– Để giải quyết những bất cập trong công tác giám định pháp y tâm thần cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động giám định tư pháp để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động giám định tư pháp. Quy định cụ thể hậu quả pháp lý và chế tài xử lý vi phạm đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý không chấp hành quy định giám định của cơ quan tiến hành tố tụng. Đồng thời, có thể nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước về việc xây dựng quy định, chế độ đối với những người bị bắt buộc chữa bệnh, chế độ ở các cơ sở chữa bệnh dạng đóng không khác gì mấy so với chế độ tù giam cho nên không có nhiều trường hợp bị cáo viện dẫn đến tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.
– Hoàn thiện khái niệm tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015. Khoản 1 Điều 8 quy định: “….hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, …., xâm phạm quyền con người, ….”. Có thể thấy, về cơ bản, nội dung điều luật này được giữ nguyên so với nội dung ở khoản 1 Điều 8 BLHS 1999, sửa đổi, bổ sung 2009, chỉ thêm vào cụm từ “hoặc pháp nhân thương mại” và “xâm phạm quyền con người” và không có điều chỉnh gì thêm. Quy định như vậy sẽ làm cho điều luật trở nên không chính xác. Bởi vì, trong khái niệm này xác định chủ thể của tội phạm là cá nhân và pháp nhân thương mại nhưng chỉ xác định điều kiện chủ thể của cá nhân (người có năng lực TNHS”, có lỗi) mà không xác định năng lực chủ thể của pháp nhân thương mại đó (chỉ yêu cầu có lỗi). Bên cạnh đó, pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi “xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Tuy nhiên, theo Điều 74 thì pháp nhân thương mại chỉ phải chịu TNHS trong một số nhóm tội, chủ yếu là các tội về kinh tế và môi trường, chứ không phải tất cả tội phạm được quy định trong BLHS.
Kết luận
Nhà nước sẽ không tồn tại nếu không có pháp luật, pháp luật chính là công cụ, phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội và duy trì chế độ chính trị. Nếu không có sự can thiệt của pháp luật thì xã hội sẽ không ổn định. Trong tình hình hiện nay, tội phạm đang ngày càng gia tăng về số lượng cũng như tính đa dạng và phức tạp, điều này đã gây nên sự hoang mang lo ngại cho toàn xã hội. Vì vậy, công tác xác định một hành vi nào đó có phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật hình sự hay không là vấn đề được các nhà áp dụng pháp luật nói riêng và mọi người trong xã hội nói chung đặc biệt quan tâm.
Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với vai trò là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự và là cơ sở để định tội, bởi một hành vi chỉ chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt tương ứng khi hành vi đó hội đủ tất cả các dấu hiệu bắc buộc của cấu thành tội phạm đó. Và ngược lại, một hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng không thoả mãn một trong số các dấu hiệu của cấu thành tội phạm sẽ được xem là không có tội phạm xảy ra và trách nhiệm hình sự không được đặt ra. Điều này phù hợp với nguyên tắc “không có luật, không có tội” theo Điều 2 của Bộ luật hình sự “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”
Như vậy, qua nghiên cứu đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm; thực tiễn thực hiện và những hạn chế của Luật trong việc quy định về các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm; từ đó đưa ra nguyên nhân và đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ luật hình sự 1999, bộ luật hình sự 2009, bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
- TS.Phạm Văn Beo, Luật hình sự Việt nam – quyển 1 (phần chung), NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 2009.
- Nguyễn Ngọc Hoà, Tội phạm và Cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2006.
- Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (Đồng chủ biên). 2017. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế Giới, Tp. HCM.
- Lê Văn Cảm. 2005. Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự – Phần chung (Sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.147, 357, 533, 537, 627 – 632.
- Nguyễn Quy Công (2010), “Về trách nhiệm hình sự của pháp nhân”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10, tr. 82-84.
- Trần Văn Cường. 2016. “Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 2015, Tạp chí Dân chú & Pháp luật, Số 6.tr.50 -54.
Nội dung bài viết:
Bình luận