Tiểu luận là một trong những thuật ngữ mà chúng ta thường hay bắt gặp, nhất là các bạn học sinh, sinh viên. Việc chọn lựa đề tài cho một bài tiểu luận vốn dĩ đã hề không đơn giản, mà khi đã chọn được đề tài thì việc trình bày, diễn giải, phân tích vấn đề đã được chọn càng khó khăn hơn. Theo đó, cùng với sự phát triển kinh tế, các vấn đề liên quan đến ngân hàng thương mại dần được tìm kiếm ngày càng nhiều. Do đó, tiểu luận về đề tài ngân hàng thương mại đang được nhiều người quan tâm do tính ứng dụng và thực tiễn mà nó mang lại trong cuộc sống ngày nay. Để hiểu rõ hơn về tiểu luận ngân hàng thương mại, mời quý bạn đọc cùng tham khảo bài viết sau đây.
Bài mẫu tiểu luận ngân hàng thương mại
1. Khái quát về tiểu luận
Tiểu luận được hiểu là một bài viết được thể hiện dưới dạng văn bản, dùng để trình bày quan điểm, nghiên cứu, phát hiện về một chủ đề mà người viết muốn thể hiện.
Tiểu luận thường có 2 loại đó là tiểu luận môn học và tiểu luận tốt nghiệp. Đối với bài tiểu luận môn học thường sẽ có độ dài tầm 5 đến 25 trang và phụ thuộc vào quy định của các trường hoặc các giảng viên giảng dạy môn học đó đưa ra. Còn bài tiểu luận tốt nghiệp nội dung thường chuyên sâu hơn, độ dài khoảng từ 30 – 50 trang và phụ thuộc vào từng yêu cầu riêng.
Nội dung của một bài tiểu luận dù viết về vấn đề gì thì cũng phải nêu lên được vấn đề, phân tích vấn đề và trình bày những kết quả nghiên cứu mà người viết phát hiện được, hay nêu ý kiến, quan điểm, kết luận của người viết.
Thông qua bài tiểu luận, người viết sẽ chứng tỏ được năng lực và khả năng của mình, từ đó hiểu được những câu hỏi, vấn đề đặt ra và tìm hiểu tất cả các thông tin tương đối đầy đủ về những vấn đề đó. Khi viết tiểu luận người viết sẽ có cơ hội thể hiện khả năng suy nghĩ và phân tích của mình, do đó bài tiểu luận thường được sử dụng để đánh giá năng lực sinh viên, học viên tại các trường đại học, cao đẳng.
Một bài tiểu luận khoa học không thể trình bày một cách ngẫu hứng theo sở thích của người viết mà phải theo những tiêu chuẩn quy định chuẩn về cỡ chữ, khoảng cách giữa các dòng, canh lề, kiểu chữ, tiêu đề, trình bày lời cảm ơn, ghi chú, trích dẫn, tài liệu tham khảo...
2. Cách thức trình bày tiểu luận
Thông thường một bài tiểu luận thường có bố cục chi tiết như sau:
- Phần trang bìa: được đặt ở phía ngoài cùng của một bài tiểu luận và được in bằng giấy cứng. Khi trình bày trang bìa phải có đầy đủ các thông tin như sau: Phía trên cùng trang bìa là tên của trường và tên khoa của người thực hiện. Sau đó là logo của trường. Phần giữa trang bìa sẽ thể hiện tên đề tài nghiên cứu và được trình bày bằng khổ chữ to. Phía góc phải cuối trang bìa ghi họ và tên của giảng viên hướng dẫn, tên người viết tiểu luận, mã sinh viên, ngày tháng thực hiện. Mỗi trường sẽ có quy định đóng trang bìa sao cho phù hợp nhất.
- Trang phụ bìa được lập theo bìa mẫu của từng trường.
- Trang nhận xét của giảng viên hướng dẫn viết tiểu luận.
- Lời cảm ơn.
- Mục lục.
- Danh sách từ viết tắt, thuật ngữ
- Danh sách bảng biểu, hình vẽ.
- Nội dung bài tiểu luận.
- Danh mục tài liệu tham khảo.
Để một bài tiểu luận đạt chuẩn và ấn tượng bạn cần nắm được quy định về cách trình bày một văn bản tiêu chuẩn. Cụ thể như sau:
- Bài tiểu luận cần được trình bày trên khổ giấy A4 với kích thước 210x297 mm và thuộc định dạng kiểu trang đứng.
- Sử dụng Font chữ Time New Roman
- Cỡ chữ phần nội dung là 13 và cỡ chữ phần đề mục thường là 13 hoặc 14. Các đề mục lớn nên để font chữ to hơn và thống nhất để dễ nhìn.
- Cách dãn dòng từ 1.2 – 1.3 lines.
- Căn lề trên, lề dưới từ 2.0 – 2.5cm, căn lề phải 2.0cm và căn lề trái từ 3.0 – 3.5cm.
- Đối với độ dài của một bài tiểu luận sẽ không quá 30 trang và không tính phụ lục.
- Đánh số trang đầy đủ.
- Đính kèm thêm một trang tiêu đề với đầy đủ thông tin liên quan tới họ, tên, mã sinh viên, mã môn học, tên câu hỏi, đề tài.
- Tại từng trang bài tiểu luận sử dụng phần Header hoặc Footer để ghi tên và mã sinh viên của người thực hiện.
Dưới đây là bảng tham khảo cách trình bày tiểu luận:
Đề mục | Cỡ chữ | Định dạng | Canh lề trang |
Tên chương | 14 | In hoa in đậm | Giữa |
Tên tiểu mục mức 1 | 13 | In hoa in đậm | Trái |
Tên tiểu mục mức 2 | 13 | Chữ thường chữ đậm | Trái |
Tên tiểu mục mức 3 | 13 | Chữ thường, nghiêng | Trái |
Nội dung | 13 | Normal | Đều |
Tên khóa học | 13 | Nghiêng | Đều |
Bảng(Table) | 12 | Normal | Trái |
Chú thích bảng | 10 | Nghiêng | Trái, dưới bảng |
Tên bảng | 11 | Đậm | Trái, trên bảng |
Tên hình | 11 | Đậm | Trái, dưới hình |
Tài liệu tham khảo | 11 | Xem mục E | Chú thích bên dưới |
3. Tiểu luận ngân hàng thương mại
Tên đề tài: Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Thực tế những năm qua, trong sự đổi mới của bộ mặt đất nước hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng được coi không chỉ là điều kiện mà còn là động lực đảm bảo thắng lợi cho công cuộc đổi mới. Ngân hàng thương mại chính là tổ chức thực hiện chức năng cơ bản này của Ngân hàng.
Tiểu luận ngân hàng thương mại có thể bao gồm các phần chính như sau:
- Lời mở đầu
- I. Lý luận chung về hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1. Ngân hàng thương mại
2. Phân loại ngân hàng thương mại
3. Các hoạt động của ngân hàng thương mại - II. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.Khái niệm về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
2.Các hình thức huy động vốn
2.1. Ba hình thức ký gửi tại ngân hàng thương ma
2.2. Nguồn vốn tiền gửi của ngân hàng thương mại
2.3. Vốn tự tạo của ngân hàng thương mại
2.4. Vốn đi vay của ngân hàng thương mại
3. Thực trạng huy động vốn ở ngân hàng thương mại Việt Nam
3.1. Thực trạng
3.2. Những thuận lợi và khó khăn
3.3. Giải pháp
4. Kết luận - III. Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại
1. Hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng thương mại
2. Thực trạng hiệu quả sử dụng nguồn vốn của ngân hàng thương mại Việt nam
3. Kết luận - IV. Phân phối lợi nhuận trong ngân hàng thương mại
1. Lợi nhuận của ngân hàng thương mại
2.Phân phối lợi nhuận và trích lập các quỹ
3. Kết luận - V. Tổng kết
Một số nội dung có thể tham khảo cho bài tiểu luận ngân hàng thương mại như sau:
- Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân, bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên. Bản chất. Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt và là môt đơn vị - kinh tế kinh doanh trong ngành dịch vụ tài chính ngân hàng.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM: Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm dịch vụ và Cách mạng trong công nghệ ngân hàng có thể xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế giới.
- NHTM giúp cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh, góp phần hình thành, duy trì và phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu ngành và khu vực nhất định. Mặt khác, các NHTM góp phần điều chỉnh ngành, khu vực khi xuất hiện sự phát triển mất cân đối hoặc khi cần có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường, phục vụ cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia.
- Ngân hàng thương mại sử dụng phần lớn nguồn vốn của mình vào việc cho vay đối với các doanh nghiệp và cá nhân nên còn gọi là tài sản có tín dụng. Trong nghiệp vụ sử dụng vốn thì nghiệp vụ cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất, nên lợi nhuận của NHTM chủ yếu được sinh ra từ nghiệp vụ này.
- Ở Việt Nam, trước khi Pháp xâm lược nước ta, nhân dân hầu như không biết đến ngân hàng là gì, nền kinh tế trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chủ yếu dựa vào hoạt đông sản xuất nông nghiệp. Nền sản xuất lớn chưa hình thành, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tại các làng xóm thường là hoạt động gia đình, sản xuất nhỏ, không cần nhiều vốn. Hoạt động thương mại trong nước cũng như quốc tế không có gì đáng kể. Dân trong nước còn nghèo nàn không dư tiền, không có bảo vật cần gửi tại các nơi chắc chắn. Do vậy, chưa cần thiết có các cơ quan làm nhưng dịch vụ ngân hàng. Thời kỳ từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Từ giữa thế kỷ XIX, Pháp tiến hành xâm lược nước ta và đến cuối thế kỷ XIX, nước ta trở thành thuộc địa của Pháp. Ở các đô thị của Việt Nam, thực dân Pháp đã thành lập các doanh nghiệp xuất khẩu, nhà máy, đồn điền trang trại lớn. Các hoạt động kinh tế của người Pháp phát triển rộng, nên người Pháp phải lập ra các ngân hàng để hỗ trợ cho các hoạt động của họ. Từ tháng 5/1955 đến tháng 4/1975, chính quyền Nam Việt Nam đã tạo dựng được một hệ thống ngân hàng của nền kinh tế thị trường. Hệ thống ngân hàng của nước ta đã được hình thành ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập với các định chế như: Nông nghiệp tín dụng thuộc Bộ Canh nông (1945), Kinh tế tín dụng thuộc bộ Kinh tế (1945), Nha tín dụng sản xuất (1947). Ngày 6 tháng 5 năm 1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập theo sắc lệnh số 15/LCT của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến tháng 9 năm 1960 được mang tên là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cùng với sự ra đời của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, một số ngân hàng khác cũng được thành lập như Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam (1957).
- Việt Nam trong thời gian qua có số lượng NHTM là quá nhiều, nhất là ngân hàng nhỏ và do đó cần hạn chế các NHTM nhỏ. Đáng chú ý là việc chính phủ nâng vốn điều lệ các NHTM phải trên 3.000 tỷ đồng. Mức vốn này có thể là điều kiện không cao đối với các ngân hàng quốc tế nhưng với các ngân hàng trong nước thì khó có thể với tới.Với các Ngân hàng th ương mại, mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm 2011 là 3.000 tỷ đồng; chi nhánh Ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD; với Ngân hàng chính sách, Ngân hàng phát triển là 5.000 tỷ đồng, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng hợp tác và quỹ tín dụng Nhân dân Trung ương là 3.000 tỷ đồng; với công ty tài chính là 500 tỷ đồng; công ty cho thuê tài chính là 150 tỷ đồng. Ngay tại các NHTM nhà nước, tình trạng tăng vốn tự có từ ngân sách nhà nước cũng như tốn kém nhiều tiền từ ngân sách cho xử lý nợ tồn đọng nhưng hệ thống quản trị rủi ro vẫn kém hiệu quả hoặc không hề cải thiện, chi phí hoạt động cao hơn các NHTM cổ phần. Và việc tăng vốn dường như không đi đôi với cải thiện quản trị tốt đã làm cho thị giá cố phiếu của NHTM cổ phần giảm sút nghiêm trọng trong thời gian qua.Nếu theo định hướng chính sách về thành lập NHTM mới là tăng vốn đi ều lệ thì tới đây Việt Nam sẽ toàn những NHTM lớ. Và cũng theo suy luận khi đó Việt Nam sẽ có hệ thống gồm toàn các “đại gia”. Nhìn chung, ở Việt Nam hiện nay, thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ chưa phát triển và ngân hàng Nhà nước chưa thật sự đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này.
Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của chúng tôi về vấn đề tiểu luận ngân hàng thương mại, cũng như các vấn đề pháp lý có liên quan. Trong quá trình tìm hiểu nếu như quý bạn đọc còn thắc mắc và có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn của ACC về tiểu luận ngân hàng thương mại vui lòng liên hệ với chúng tôi bằng cách để lại bình luận hoặc liên hệ qua các thông tin dưới đây để được tư vấn và giải đáp một cách cụ thể nhất.
Nội dung bài viết:
Bình luận