Trong quá trình xây dựng luận điểm, phần lớn người viết học thuật có thể đã làm quen với các khái niệm như main idea (luận điểm chính) và supporting sentences (các câu để chứng minh và làm rõ cho luận điểm chính). Một cách tương tự, trong ngôn ngữ lập luận (Reasoning), chúng ta cũng có Conclusion (kết luận) và Premises (tiền đề). Vậy tiền đề là gì? Mời quý đọc giả theo dõi bài viết dưới đây của ACC!

Tiền đề là gì?
I. Tiền đề là gì?
Tiền đề là một thuật ngữ bắt nguồn từ thảo nguyên Latinh. Khái niệm này được sử dụng để đặt tên cho dấu hiệu, triệu chứng hoặc phỏng đoán cho phép suy ra điều gì đó và rút ra kết luận.
>> Nếu các bạn muốn hiểu thêm về Lý thuyết Tiên đề Ơ-clit về đường thẳng song song hay, chi tiết hãy đọc bài viết để biết thêm thông tin chi tiết: Lý thuyết Tiên đề Ơ-clit về đường thẳng song song hay, chi tiết
II. Thông tin chung
Kết luận là luận điểm cuối cùng mà người đọc muốn chứng minh bằng các lập luận. Tiền đề có thể được hiểu là các lý do, nền tảng, ví dụ cụ thể để dẫn đến kết luận như mong muốn. Một kết luận chỉ thực sự thuyết phục khi các tiền đề hỗ trợ nó là các lập luận đúng thực tế, chân lý (về mặt nội dung) và các tiền đề này cũng cần được sắp xếp hợp lí và logic (về mặt hình thức) (Kelly).
Như vậy, việc tìm hiểu về tiền đề và kết luận cũng như mối liên kết giữa hai thành phần nêu trên sẽ phần nào giúp người viết học thuật xây dựng được các lập luận chặt chẽ hơn trong quá trình xây dựng luận điểm của mình.
Do đó, đối với logic và triết học, các tiền đề là những đề xuất đi trước kết luận . Điều này có nghĩa là kết luận này có nguồn gốc từ các cơ sở, mặc dù những điều này có thể sai hoặc đúng.
Ví dụ:
– Tiền đề số 1: “Con người như biển” – Tiền đề số 2: “Facundo là một con người” – Kết luận: “Facundo thích biển”
Như có thể thấy trong ví dụ, nếu con người thích biển và Facundo là một con người, có thể kết luận rằng Facundo phải thích nó. Tất nhiên kết luận có thể sai vì tiền đề đầu tiên không chính xác: có những người không thích biển .
Trong các trường hợp khác, các tiền đề có thể đúng và tuy nhiên, kết luận là sai:

Tiền đề là gì?
– Tiền đề số 1: “Mỗi thứ Hai, Fernanda thức dậy lúc 8 giờ sáng” – Tiền đề số 2: “Hôm nay, Fernanda thức dậy lúc 8 giờ sáng” – Kết luận: “Hôm nay là thứ hai”
Trong ví dụ này, kết luận có thể sai ngay cả khi tiền đề là đúng vì tiền đề đầu tiên không độc quyền. Do đó, có thể đúng là Fernanda thức dậy vào mỗi thứ Hai lúc 8 giờ sáng, nhưng cô cũng có thể thức dậy vào thời điểm đó vào bất kỳ ngày nào khác trong tuần.
Cuối cùng, trong ngôn ngữ thông tục, ý tưởng tiền đề thường được sử dụng như một từ đồng nghĩa của nguyên tắc (theo nghĩa đạo đức), giá trị hoặc mục tiêu : “Đội bóng xứ Catalan luôn tìm kiếm chiến thắng dựa trên tiền đề kiểm soát bóng”, “Chúng tôi bắt đầu chuyến đi lúc bình minh với tiền đề đến đích vào giờ ăn trưa “ .
Một hình thức suy luận được gọi là tam đoạn luận, nghĩa là một lập luận trong đó kết luận thu được mà không có ngoại lệ từ các tiền đề. Trong trường hợp này, có ba đề xuất: hai tiền đề và kết luận. Người đầu tiên hình thành một tam đoạn luận là triết gia Hy Lạp và Aristotle logic trong tác phẩm của ông mang tên ” The Organon “, có thể được dịch là “nhạc cụ”.
Theo Aristotle, logic là mối quan hệ của các thuật ngữ, chúng kết hợp với nhau hoặc được chia thành các phán đoán, và theo quan điểm của chúng về cái sau, một chủ đề và một vị ngữ cũng can thiệp. Mặc dù khái niệm phán đoán đôi khi bị nhầm lẫn với mệnh đề, có những khác biệt rõ ràng: các thuộc tính đầu tiên là một vị ngữ cho một chủ đề logic và các thuật ngữ một chức năng ngữ nghĩa và cú pháp; mặt khác, mệnh đề là một sự khẳng định một thực tế là nội dung logic, biến nó thành một tổng thể.
Các điều khoản của một thử nghiệm có liên quan với nhau và so sánh của chúng với một thử nghiệm có thể được coi là phương tiện cho khả năng kết luận xuất hiện. Theo cách này, tam đoạn luận bao gồm hai phán đoán, tiền đề chính và tiền đề phụ, trong đó ba thuật ngữ được so sánh với nhau và từ đó một thuật ngữ mới được sinh ra, được gọi là kết luận. Các định luật logic cố gắng đảm bảo rằng sự thật của ba cái đầu tiên được duy trì trong cái thứ tư.
Cấu trúc cơ bản của tam đoạn luận như sau:
Cụ thể hơn, tam đoạn luận là loại suy luận đi từ hai mệnh đề để tiến đến một kết luận tất yếu đã ngầm chứa trong hai mệnh đề đó. Tam đoạn luận gồm 3 bộ phận: tiền đề lớn, tiền đề nhỏ, và kết luận.
Ví dụ: Mọi luật sư đều hiểu biết pháp luật (Tiền đề lớn)
P M
Anh X không hiểu biết pháp luật (Tiền đề nhỏ)
S M
Anh X không phải luật sư (Kết luận)
S P
Về kết cấu logic, mỗi luận ba đoạn có hai phán đoán tiền đề, khẳng định những hiểu biết về đối tượng phản ánh và phán đoán kết luận được rút ra trên cơ sở các phán đoán tiền đề.
Trong tam đoạn luận có ba thuật ngữ:
Thuật ngữ lớn (kí hiệu: P) là vị từ trong phán đoán kết luận;
Thuật ngữ nhỏ (kí hiệu: S) là chủ từ trong phán đoán kết luận;
Thuật ngữ giữa (M) là thuật ngữ lặp lại ở hai phán đoán tiền đề và đóng vai trò trung gian để rút ra phán đoán kết luận.
Phán đoán tiền đề có thuật ngữ lớn (P) gọi là tiền đề lớn.
Phán đoán tiền đề có thuật ngữ nhỏ (S) gọi là tiền đề nhỏ.
Căn cứ vào vị trí của thuật ngữ giữa (M) ở các phán đoán tiền đề chia tam đoạn luận thành bốn loại hình:
Loại hình 1: Thuật ngữ giữa làm chủ từ ở phán đoán tiền đề lớn, vị từ ở phán đoán tiền đề nhỏ.
Ví dụ: Mọi thẩm phán đều hiểu biết pháp luật
M P
Anh A là thẩm phán
S M
Kết luận: Anh A hiểu biết pháp luật
S P
Loại hình 2: Thuật ngữ giữa làm vị từ ở cả hai phán đoán tiền đề.
Ví dụ: Mọi thẩm phán đều hiểu biết pháp luật
P M
Anh A không hiểu biết pháp luật
S M
Kết luận: Anh A không phải thẩm phán
S P
Loại hình 3: Thuật ngữ giữa làm chủ từ ở cả hai phán đoán tiền đề.
Ví dụ: Anh A là luật sư
M P
Anh A là người hiểu biết pháp luật
M S
Kết luận: Có người hiểu biết pháp luật là luật sư
S P
Loại hình 4: Thuật ngữ giữa làm vị từ ở phán đoán tiền đề lớn, làm chủ từ ở phán đoán tiền đề nhỏ.
Ví dụ: Có cử nhân là cử nhân luật
P M
Tất cả cử nhân luật đều hiểu biết pháp luật
M S
Kết luận, Có người hiểu biết pháp luật là cử nhân
S P

Tiền đề là gì?
Tam đoạn luận là hình thức suy luận gián tiếp, chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: các thuật ngữ, các tiền đề và hình thức cấu tạo của mỗi loại hình tam đoạn luận. Do đó, nó đòi hỏi phải tuân theo những quy tắc nhất định. Nếu kết luận của lập luận là chắc chắn (nghĩa là đi tới một kết luận trong mọi trường hợp), lập luận được xem là đúng (có hiệu lực). Ngược lại nếu có một trường hợp mà kết luận không thể đạt được, lập luận sai (không hiệu lực).
ACC hy vọng đã hỗ trợ để có thể giúp bạn hiểu thêm về một số vấn đề về tiền đề. Nếu có gì thắc mắc quý đọc giả vui lòng liên hệ với chúng tôi qua Website: accgroup.vn
III. Mọi người cũng hỏi
1. Tiền đề là gì trong ngữ cảnh học thuật và nghiên cứu?
Trả lời 1: Tiền đề trong ngữ cảnh học thuật và nghiên cứu là phần của nghiên cứu mà bạn nêu ra để giải thích vấn đề bạn muốn tìm hiểu. Đây là lý do và cơ sở cho việc tiến hành nghiên cứu, và nó giúp xác định phạm vi, mục tiêu, và ý nghĩa của dự án nghiên cứu.
2. Làm thế nào để xác định tiền đề trong một dự án nghiên cứu?
Trả lời 2: Để xác định tiền đề, bạn cần nghiên cứu kỹ về lĩnh vực bạn quan tâm và xác định các lỗ hổng kiến thức hoặc vấn đề cụ thể mà bạn muốn giải quyết. Tiền đề cũng có thể dựa trên những nghiên cứu trước đó và tình hình hiện tại của lĩnh vực đó.
3. Tại sao tiền đề quan trọng trong nghiên cứu?
Trả lời 3: Tiền đề quan trọng trong nghiên cứu vì nó định hình hướng đi của dự án, giúp xác định rõ mục tiêu nghiên cứu, và cung cấp cơ sở cho việc thu thập và phân tích dữ liệu. Nó giúp đảm bảo rằng nghiên cứu của bạn có ý nghĩa và giá trị thêm vào kiến thức hiện có trong lĩnh vực.
Nội dung bài viết:
Bình luận