Thực nghiệm điều tra một biện pháp điều tra được áp dụng đối với hầu hết các vụ an hình sự nhằm mục đích khôi phục hiện trường ban đầu của vụ án để phục vụ công tác điều tra tìm ra sự thật của vụ án hình sự, đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội theo quy định của pháp luật. Như vậy, pháp luật hiện hành điều chỉnh biên pháp thực nghiệm điều tra như thế nào? Bài viết dưới đây đề cập đến vấn đề Quy định về thực nghiệm điều tra trong pháp luật tố tụng hình sự.
![Quy định về thực nghiệm điều tra [Chi tiết 2022]](https://cdn.accgroup.vn/wp-content/uploads/2022/11/thuc-nghiem-dieu-tra.jpg)
1. Thực nghiệm điều tra là gì?
Thực nghiệm điều tra là biện pháp điều tra tội phạm được tiến hành thông qua các hoạt động thí nghiệm, thực nghiệm đặc biệt trong điều kiện tương tự như điều kiện mà hành vi, sự việc hiện tượng cần kiểm tra, xác minh đã diễn ra trước đây để có cơ sở khách quan kết luận hành vi, sự kiện, hiện tượng đó. từ đó có thể quán đoán ra tính chất, hành vi, diễn biến của tội phạm.
2. Điều kiện để thi hành thực nghiệm điều tra vụ án
Căn cứ khoản 1 Điều 204 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, việc thực nghiệm điều tra cần đáp ứng các tiêu chí:
- Mục đích của việc thực nghiệm là để kiểm tra, xác minh tài liệu, tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Chẳng hạn như: Kiểm tra xem bị can có thể thực hiện được hành vi nào đó hay không? Người làm chứng, bị hại có thể trông thấy, nghe thấy lời nói của bị can trong một khoảng cách xác định hay không?...
- Thực nghiệm điều tra được tiến hành thông qua các hoạt động thí nghiệm, thực nghiệm đặc biệt trong điều kiện tương tự như điều kiện mà hành vi, sự việc, hiện tượng cần kiểm tra, xác minh đã diễn ra trước đây để có cơ sở khách quan kết luận về hành vi, sự việc, hiện tượng đó phục vụ công tác điều tra và xử lý vụ án hình sự.
- Khi thực nghiệm điều tra phải đo đạc, chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, ghi rõ kết quả thực nghiệm điều tra vào biên bản.
- Nghiêm cấm việc thực nghiệm điều tra xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người tham gia thực nghiệm điều tra và người khác.
3. Thủ tục thực nghiệm điều tra vụ án
3.1. Thẩm quyền thực hiện thực nghiệm điều tra vụ án
Theo khoản 2 và khoản 3 Điều 204 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, khoản 1 Điều 12 Thông tư liên tịch 04/2018, những người sau đây có thẩm quyền thực nghiệm điều tra vụ án:
- Điều tra viên;
- Kiểm sát viên;
- Người có chuyên môn (theo lời mời của Cơ quan điều tra);
- Trường hợp cần thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng cũng có thể tham gia thực nghiệm điều tra.
Như vậy, người tiến hành thực nghiệm điều tra có thể là Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên. Trong giai đoạn điều tra, khi cần kiểm tra, xác minh các tài liệu, tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra có thể thực nghiệm điều tra; Kiểm sát viên chủ yếu kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Điều tra viên khi tiến hành biện pháp này. Kiểm sát viên có thể trực tiếp tiến hành biện pháp này trong trường hợp cần thiết.
3.2. Thủ tục thực nghiệm điều tra
Theo quy định tại Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
- Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
- Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
Luật sư có vai trò trấn an thân chủ, động viên họ đưa ra lời khai trung thực, khách quan. Từ đó có thêm cơ sở để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho thân chủ mình.
Xuyên suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử, luật sư hình sự có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Cơ quan điều tra có thể thực nghiệm điều tra bằng cách dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc những tình tiết khác của một sự việc nhất định và tiến hành các hoạt động thực nghiệm cần thiết. Khi tiến hành thực nghiệm điều tra. Trước đây, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định theo hướng khi thấy cần thì có thể đo đạc, chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ. Còn hiện nay, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định bắt buộc phải thực hiện các hoạt đồng này, đồng thời còn phải ghi rõ kết quả thực nghiệm điều tra vào biên bản.
Kiểm sát thực nghiệm điều tra: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không quy định bắt buộc Kiểm sát viên phải kiểm sát trực tiếp việc thực nghiệm điều tra nên trong quá trình điều tra, Kiểm sát viên chủ yếu kiểm sát việc thực nghiệm điều tra thông qua nghiên cứu các biên bản do Điều tra viên chuyển đến. Để nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên trong kiểm sát hoạt động điều tra, bảo đảm tính khách quan của việc thực nghiệm điều tra, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tại khoản 2 Điều này đã bổ sung quy định bắt buộc Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc thực nghiệm điều tra, theo đó:“Trước khi tiến hành thực nghiệm điều tra, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết về thời gian và địa điểm tiến hành thực nghiệm điều tra. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc thực nghiệm điều tra. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải ghi rõ vào biên bản”.
Trên đây là nội dung về Quy định về thực nghiệm điều tra. Mong rằng bài viết này sẽ cung cấp cho quý bạn đọc những thông tin bổ ích. Nếu có thắc mắc hay cần tư vấn, vui lòng liên hệ với công ty luật ACC để chúng tôi có thể giải đáp cho quý bạn đọc một cách nhanh chóng nhất.
Nội dung bài viết:
Bình luận