Thủ tục lập pháp ở Việt Nam [Cập nhật 2022]

Lập pháp là một trong những chức năng chủ yếu, quan trọng nhất của Quốc hội để thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, thiết lập hành lang pháp lý, chuẩn mực cho tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, toàn xã hội. Hoạt động lập pháp này là hoạt động bao gồm nhiều giai đoạn mang tính liên tục, kế tiếp nhau từ việc tìm kiếm và phát hiện nhu cầu các quan hệ xã hội cần được điều chỉnh bằng pháp luật đến việc soạn thảo, thẩm tra, lấy ý kiến, thảo luận, tiếp thu, chỉnh lý và thông qua các dự án luật, công bố luật theo một trình tự, thủ tục được xác định. Ở mỗi giai đoạn nêu trên lại có nhiều thủ tục, hoạt động khác nhau với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau. Bài viết dưới đây của ACC về Thủ tục lập pháp ở Việt Nam [Cập nhật 2022] hi vọng đem lại nhiều thông tin chi tiết và cụ thể đến Quý bạn đọc.

Lập pháp là gì? Cơ quan lập pháp là gì? - tmsquynhon.com.vn

Thủ tục lập pháp ở Việt Nam [Cập nhật 2022]

I. Khái niệm lập pháp

Lập pháp trong mối tương quan khác nhau sẽ mang nghĩa khác nhau, do vậy lập pháp sẽ được hiểu theo nghĩa như sau:

– Lập pháp được hiểu là việc các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, thực hiện nghiên cứu soạn thảo ra Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật và sửa đổi văn bản pháp luật.

– Lập pháp còn được hiểu theo nghĩa là việc các cơ quan thực hiện nghiên cứu soạn thảo và ban hành ra văn bản pháp luật, thực hiện sửa đổi luật.

II. Về chủ thể trình dự án luật

Về cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền trình dự án luật bao gồm: Chủ tịch nước, UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội, ĐBQH, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Mặt trận và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Đối với ĐBQH, bên cạnh quyền trình dự án luật còn có quyền trình kiến nghị về luật.

III. Về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội

Trên cơ sở ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền trình dự án luật, pháp lệnh, căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu của thực tiễn, UBTVQH lập và trình Quốc hội xem xét, quyết định Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm. Căn cứ vào Chương trình đã được Quốc hội thông qua, UBTVQH phân công soạn thảo, phân công thẩm tra đối với các dự án luật. Kinh nghiệm cho thấy, việc phân công hợp lý, khoa học, đúng chức năng, nhiệm vụ, chuyên môn của cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm chất lượng và thời gian, tiến độ chuẩn bị các dự án luật.

Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh là một định hướng quan trọng do Quốc hội quyết định, nó đặt ra mục tiêu, yêu cầu để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan phấn đấu thực hiện nhằm phúc đáp yêu cầu bức xúc của cuộc sống. Việc xây dựng và ban hành Chương trình được gắn với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, hàng năm và trên cơ sở yêu cầu mà thực tiễn cuộc sống đang đặt ra.

IV. Thủ tục lập pháp ở Việt Nam

a) Giai đoạn soạn thảo, chuẩn bị dự án

Trên thực tế, các dự án luật phần lớn được giao cho các cơ quan của Chính phủ (các bộ, cơ quan ngang bộ) soạn thảo, trong đó, một số trường hợp được giao cho TANDTC, VKSNDTC, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội soạn thảo. Đối với một số dự án luật có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực thì tùy theo tính chất và phạm vi điều chỉnh của các dự án đó mà UBTVQH hoặc Chính phủ sẽ quyết định thành lập Ban soạn thảo bao gồm nhiều cơ quan nhà nước có liên quan.

- Các bước soạn thảo dự án luật:

+ Tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật; tiến hành tập hợp hóa, pháp điển hóa các VBQPPL thuộc phạm vi, đối tượng điều chỉnh của dự án.

+ Thu thập các thông tin, tài liệu trong và ngoài nước liên quan đến dự án.

+ Tiến hành khảo sát thực tế trong nước và nước ngoài về những vấn đề mà dự án luật điều chỉnh.

+ Tổ chức Hội thảo khoa học trong nước và quốc tế.

+ Đánh giá tác động về những chế định, quy phạm của dự án.

+ Soạn thảo dự án lần 1, lần 2, lần 3….

+ Tiến hành lấy ý kiến các đối tượng chịu sự điều chỉnh của dự án; ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước; ý kiến của nhân dân (trong những trường hợp do UBTVQH quyết định).

+ Thảo luận trong Tổ biên tập, Ban soạn thảo.

+ Thảo luận giữa Tổ biên tập, Ban soạn thảo và các cơ quan, tổ chức hữu quan.

+ Các dự án luật do Chính phủ trình Quốc hội phải được Chính phủ thảo luận tập thể và quyết định theo đa số; dự án luật do TANDTC trình phải được Hội đồng thẩm phán TANDTC thảo luận tập thể và quyết định theo đa số; dự án luật do VKSNDTC trình phải được Ủy ban kiểm sát VKSNDTC thảo luận tập thể và quyết định theo đa số; dự án luật do HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội trình phải được HĐDT, các Ủy ban thảo luận tập thể và quyết định theo đa số; dự án luật do Mặt trận tổ quốc và các thành viên trình thì việc thảo luận tập thể, quyết định theo đa số được thực hiện theo quy định điều lệ của các tổ chức đó.

b) Giai đoạn thẩm tra

- Tất cả các dự án luật trước khi trình Quốc hội phải được HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội thẩm tra; UBTVQH cho ý kiến.

- Hiện nay, công tác thẩm tra dự án luật của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội ngày càng được tổ chức theo chiều sâu. Việc thẩm tra đã góp phần bảo đảm tính có căn cứ, tính khoa học, tính cần thiết, tính khả thi, tính phù hợp với thực tiễn, các quy luật khách quan… của dự án luật. Đồng thời, dự án luật được xem xét đầy đủ, toàn diện về mọi mặt để đánh giá đúng mức về khả năng thực tế của việc chuẩn bị dự án trước khi trình Quốc hội. Một mặt xem xét tính hợp hiến, hợp pháp, đồng bộ thống nhất của dự án luật với hệ thống pháp luật hiện hành và các dự án luật cùng trình Quốc hội, mặt khác xem xét tính khoa học, phù hợp với quy luật phát triển khách quan và thực tiễn, với ý chí và nguyện vọng của nhân dân, tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc cân nhắc, xem xét một cách thận trọng tất cả các ý kiến khác nhau trong quá trình thẩm tra dự án đã làm cho hoạt động thẩm tra ngày càng phong phú, khoa học, chặt chẽ và toàn diện hơn.

- Việc phân công thẩm tra:

+ Thẩm tra các dự án luật là chức năng riêng có của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội.

+ Việc phân công thẩm tra trên cơ sở lĩnh vực hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội;

+ Sự đan xen của các quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực có liên quan, nhất là trong điều kiện các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực cần phải được xem xét toàn diện, bảo đảm đúng lĩnh vực hoạt động của HĐDT, Ủy ban khi UBTVQH tiến hành phân công thẩm tra;

+ Nội dung quản lý nhà nước trong các dự án luật có liên quan tới các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Vai trò của Ủy ban Pháp luật khi tham gia thẩm tra với HĐDT, các Ủy ban khác bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất của hệ thống pháp luật phải được đề cao đúng mức;

+ Công tác phối hợp thẩm tra cần có nhiều phương thức linh hoạt để phù hợp với yêu cầu thực tiễn của cuộc sống và điều kiện về tổ chức, hoạt động của HĐDT, các Ủy ban hiện nay.

- Chuẩn bị cuộc họp thẩm tra:

+ Thu thập thông tin, tài liệu (trong và ngoài nước);

+ Khảo sát thực tiễn trong nước và quốc tế;

+ Tổ chức Hội thảo khoa học (trong nước và nước ngoài);

+ Lấy ý kiến của các chuyên gia; ý kiến của một số địa phương, của đối tượng chịu sự điều chỉnh (trong trường hợp cần thiết);

+ Nghe cơ quan soạn thảo, các cơ quan, tổ chức có liên quan giải trình, làm rõ một số vấn đề mà cơ quan thẩm tra quan tâm.

- Tổ chức phiên họp thẩm tra:

+ Thành phần tham dự phiên họp thẩm tra bao gồm thành viên HĐDT, Ủy ban chủ trì thẩm tra, đại diện cơ quan tham gia thẩm tra, cơ quan trình dự án, các thành viên Ban soạn thảo, các cơ quan, tổ chức hữu quan, một số chuyên gia pháp lý, chuyên gia chuyên ngành và các nhà khoa học, các phương tiện thông tin đại chúng. Trong một số trường hợp còn có sự tham gia của lãnh đạo Quốc hội;

+ Phương thức tổ chức bao gồm: Họp toàn thể cơ quan chủ trì thẩm tra với các cơ quan tham gia thẩm tra; họp toàn thể cơ quan chủ trì thẩm tra với Thường trực hoặc đại diện cơ quan tham gia thẩm tra; họp Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra hoặc Thường trực mở rộng; họp Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra với đại diện các cơ quan tham gia thẩm tra;

+ Trình tự tiến hành tại phiên họp thẩm tra: Đại diện cơ quan trình dự án trình bày Tờ trình; Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra trình bày ý kiến nghiên cứu; Chủ tọa phiên họp nêu những vấn đề cần tập trung thảo luận; các đại biểu dự họp đặt câu hỏi làm rõ một số vấn đề, đại diện cơ quan trình dự án giải đáp; các đại biểu thảo luận, tranh luận; Cơ quan trình dự án giải trình, tiếp thu ý kiến của các đại biểu để tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự án; Chủ tọa kết luận phiên họp.

- Về thảo luận tại phiên họp:

+ Nêu các vấn đề tập trung thảo luận, nhất là những vấn đề còn có ý kiến, quan điểm khác nhau trong Ban soạn thảo, hoặc giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan hoặc giữa các thành viên của cơ quan thẩm tra;

+ Nội dung thảo luận bao gồm tính hợp hiến, hợp pháp, tính có căn cứ pháp luật, căn cứ thực tiễn và tính thống nhất của hệ thống pháp luật; phạm vi, đối tượng điều chỉnh; đánh giá tác động; tính tương đồng đối với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; nội dung của dự án; về quản lý nhà nước và hiệu lực của văn bản;

+ Biểu quyết về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau giữa các thành viên cơ quan thẩm tra (từng nội dung hoặc toàn bộ dự án).

- Về nội dung Báo cáo thẩm tra:

+ Đây là hệ quả quan trọng của toàn bộ hoạt động thẩm tra của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội;

+ Các quan điểm của đa số, thiểu số và ý kiến lập luận của các quan điểm đều phải được phản ánh, trình bày đầy đủ, toàn diện trong Báo cáo thẩm tra;

+ Làm rõ căn cứ lý luận, thực tiễn và khoa học về những vấn đề phản biện được đặt ra trong báo cáo thẩm tra;

+ Nêu rõ mặt được, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của dự thảo luật, nhất là về chất lượng văn bản, vấn đề lợi ích nhóm, vấn đề không khả thi, không phù hợp với thực tiễn…;

+ Nêu những kiến nghị, phương án, giải pháp để hoàn thiện chính sách, các quy định, chế định của dự án.

c) Giai đoạn cho ý kiến trước khi trình Quốc hội

- UBTVQH là chủ thể duy nhất cho ý kiến đối với các dự án luật trước khi trình Quốc hội.

- Việc cho ý kiến bao gồm các vấn đề cơ bản sau đây:

 + Nội dung và phạm vi của việc cho ý kiến của UBTVQH: những vấn đề chính sách, tính khả thi, thống nhất, nguồn lực thực hiện;

 + Việc thảo luận, tranh luận tại UBTVQH;

 + Giá trị pháp lý của việc cho ý kiến;

 + Trình tự của phiên họp cho ý kiến; trong trường hợp cần thiết tiến hành việc biểu quyết;

 + Giải trình, tiếp thu của cơ quan trình dự án, cơ quan thẩm tra.

d) Trình dự án luật tại kỳ họp Quốc hội

- Theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL thì một dự án luật trình Quốc hội xem xét, thảo luận thông qua có thể được tiến hành tại một kỳ họp, hai hoặc nhiều kỳ họp. Nhưng trên thực tế, hầu hết các dự án luật được trình Quốc hội xem xét cho ý kiến và thông qua tại hai kỳ họp.

- Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội cho ý kiến về những vấn đề lớn, những vấn đề thuộc chủ trương, chính sách của dự án luật, những vấn đề còn có ý kiến khác nhau làm cơ sở cho việc chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật giữa hai kỳ họp.

- Tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội xem xét, thảo luận dự án luật đã được UBTVQH chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan soạn thảo, Ủy ban Pháp luật, cơ quan, tổ chức hữu quan chỉnh lý, hoàn thiện, sau đó xem xét và biểu quyết thông qua.

- Việc trình dự án luật tại kỳ họp thứ nhất được tiến hành như sau:

+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân trình dự án luật trình bày Tờ trình dự án luật trước Quốc hội;

+ HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội được giao chủ trì thẩm tra trình bày Báo cáo thẩm tra trước Quốc hội;

+ Các ĐBQH thảo luận tại tổ và tại Hội trường về dự án luật;

+ Khi có ý kiến khác nhau về một số vấn đề của dự án, theo sự chỉ đạo của UBTVQH, Đoàn thư ký kỳ họp phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan trình dự án gửi phiếu xin ý kiến các vị ĐBQH và trình Quốc hội về kết quả lấy ý kiến đó. Trong trường hợp cần thiết, Quốc hội có thể biểu quyết về một số vấn đề của dự án làm cơ sở cho việc tiếp thu chỉnh lý của các cơ quan hữu quan;

+ Đoàn thư ký kỳ họp phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan trình dự án tập hợp, tổng hợp ý kiến của các vị ĐBQH làm cơ sở cho việc chỉnh lý giữa hai kỳ họp.

- Việc chỉnh lý dự án luật giữa hai kỳ họp:

+ Trên cơ sở Biên bản tập hợp, tổng hợp ý kiến của các vị ĐBQH thảo luận tại tổ và tại Hội trường về các dự án luật, kết quả biểu quyết của Quốc hội về các vấn đề lớn của dự án luật nếu có, UBTVQH chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan soạn thảo dự án, Ủy ban Pháp luật và các cơ quan, tổ chức có liên quan chỉnh lý, hoàn thiện dự án;

+ Cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp cùng cơ quan soạn thảo và cơ quan, tổ chức hữu quan chỉnh lý dự án và chuẩn bị Báo cáo giải trình, tiếp thu.

+ Sau khi chỉnh lý hoàn thiện dự án luật, cơ quan chủ trì thẩm tra được giao nhiệm vụ trình UBTVQH cho ý kiến về một số vấn đề lớn, những vấn đề còn có ý kiến khác nhau trong quá trình chỉnh lý, hoàn thiện;

+ UBTVQH tổ chức phiên họp cho ý kiến;

+ Việc gửi dự án luật lấy ý kiến các đoàn ĐBQH;

+ Việc tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện theo ý kiến kết luận của UBTVQH trước khi trình Quốc hội.

- Việc trình dự án luật tại kỳ họp thứ hai:

+ UBTVQH là cơ quan trình Quốc hội xem xét, thảo luận thông qua dự án luật đã được chỉnh lý, hoàn thiện trên cơ sở ý kiến của ĐBQH;

+ Quốc hội thảo luận; trường hợp cần thiết thì biểu quyết những vấn đề còn có ý kiến khác nhau;

+ UBTVQH chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện dự án theo ý kiến phát biểu của các vị ĐBQH;

+ Quốc hội xem xét và biểu quyết thông qua.

- Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực đối với các dự án luật được Quốc hội thông qua và chuyển Chủ tịch nước công bố.

Trên đây là bài viết mà chúng tôi cung cấp đến Quý bạn đọc về Thủ tục lập pháp ở Việt Nam [Cập nhật 2022]. Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, nếu như quý bạn đọc còn thắc mắc hay quan tâm đến Thủ tục lập pháp ở Việt Nam [Cập nhật 2022], quý bạn đọc vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo