Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng trên nguyên tắc tự nguyện. Khi kết hôn, các bên nam nữ phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn được Luật hôn nhân và gia đình quy định và phải đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn có thẩm quyền thì việc kết hôn đó mới được công nhận là hợp pháp và giữa các bên nam nữ mới phát sinh quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Tuy nhiên, có thể thấy, thực trạng kết hôn trái pháp luật tại Việt Nam vẫn còn tồn tại.
Thống kê thực trạng kết hôn trái pháp luật tại Việt Nam
1. Khái quát kết hôn trái pháp luật
Khi kết hôn, các bên nam nữ phải tuân thủ các điều kiện được pháp luật quy định, không vi phạm các trường hợp cấm thì hôn nhân mới được coi là hợp pháp. Điều đó có nghĩa là, chỉ khi tuân thủ các điều kiện kết hôn, thì cuộc hôn nhân mới có giá trị pháp lý, giữa các bên mới phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng đúng nghĩa. Nếu các bên nam, nữ quyết định kết hôn mà không tuân thủ các quy định của pháp luật thì hôn nhân sẽ không được cơ quan có thẩm quyền công nhận. Qua đó có thể hiểu, kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định, cụ thể vi phạm về độ tuổi, về ý chí, vi phạm các trường hợp cấm kết hôn do pháp luật quy định. Theo Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì, nam nữ kết hôn với nhau phải tuân thủ các điều kiện như: Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên; việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở và việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn. Cụ thể, việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp: Đối với người đang có vợ hoặc chồng; người mất năng lực hành vi dân sự; giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
Kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn
Độ tuổi là một trong số những điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 với nội dung như sau: "Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên". Theo đó, vi phạm về độ tuổi kết hôn là trường hợp một trong hai bên hoặc cả hai bên nam nữ chưa đạt đến độ tuổi quy định, trường hợp kết hôn vi phạm về độ tuổi còn được gọi là tảo hôn. Ngày nay, xã hội đã có những bước phát triển lớn, cách nhìn nhận của con người về hôn nhân, gia đình đã đúng đắn hơn rất nhiều, hiện tượng vi phạm điều kiện kết hôn về độ tuổi phần lớn chỉ còn tồn tại ở một số dân tộc miền núi, thiểu số. Đường lối xử lý cũng hết sức mềm dẻo, căn cứ vào tình trạng thực tế của cuộc hôn nhân mà có trường hợp xử hủy kết hôn trái pháp luật, có trường hợp không hủy kết hôn.
Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về sự tự nguyện
Kết hôn là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân giữa hai chủ thể nam nữ được pháp luật Hôn nhân và gia đình ghi nhận và quy định những điều kiện riêng. Một trong số những điều kiện đó là sự tự nguyện của các bên nam nữ khi kết hôn, theo đó "việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở". Trái ngược với sự tự nguyện đó chính là những hành vi ép buộc, lừa dối hoặc "cưỡng ép, cản trở" các bên nam nữ xác lập quan hệ hôn nhân là những hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình. Kết hôn vi phạm sự tự nguyện là một hiện tượng diễn ra khá phổ biến trong xã hội phong kiến, nhất là đối với những gia đình có địa vị thấp kém trong xã hội. Ngày nay, hiện tượng này chủ yếu tồn tại ở một số dân tộc miền núi điển hình như tục "cướp vợ" của người H’Mông[1].
Kết hôn với những người đang có vợ hoặc có chồng
Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 đã khẳng định một trong những nguyên tắc của hôn nhân đó là hôn nhân một vợ - một chồng. Do đó, người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn với người đã có chồng hoặc đã có vợ là kết hôn trái pháp luật. Đây chính là bản chất tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa pháp luật về Hôn nhân và gia đình của nước ta - một nước xã hội chủ nghĩa so với nhà nước phong kiến hoặc tư sản. Theo pháp luật Việt Nam, thì một người đã có vợ hoặc có chồng nhưng vợ hoặc chồng đã chết, thì được kết hôn với người khác. Sự kiện một người chết có thể hiểu theo hai ý, đó là chết sinh học và chết pháp lý. Điều cần lưu ý ở đây chính là trường hợp chết pháp lý, tức là một người bị Tòa án tuyên bố chết nhưng sau đó lại trở về. Một trường hợp nữa vẫn tồn tại ở Việt Nam đến tận bây giờ đó là những quan hệ hôn nhân xác lập trước ngày Nghị quyết số 76 ngày 25/3/1977 của Quốc hội về việc "Thống nhất pháp luật giữa hai miền Nam Bắc" và công nhận một số ít trường hợp quan hệ đa thê đối với những cán bộ miền nam tập kết ra bắc mà lấy lại vợ hoặc chồng khác. trong những trường hợp này, pháp luật cần được vận dụng một cách linh hoạt.
Kết hôn với những người mất năng lực hành vi dân sự
Tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định về những trường hợp cấm kết hôn đã nêu rõ: Cấm những người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn. Như vậy, có thể nói quy định cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn là một quy định hết sức cần thiết, phù hợp với quy luật tự nhiên của quan hệ hôn nhân, đảm bảo hạnh phúc thực sự của gia đình. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 ra đời đã bỏ quy định về cấm người mắc bệnh hoa liễu kết hôn. Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 cũng một lần nữa thống nhất với các văn bản khác và đưa ra quy định không đưa người mắc bệnh HIV vào những trường hợp cấm kết hôn.
Kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, những người có họ trong phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc
Tại khoản 3, khoản 4 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 đã chỉ rõ những trường hợp cấm kết hôn bao gồm: "Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng". Xét về mặt khoa học, việc cấm kết hôn giữa những người có quan hệ huyết thống để nhằm đảm bảo cho sự phát triển khỏe mạnh của con cái, sự phát triển bền vững và hạnh phúc của gia đình. Xét về yếu tố phong tục, tập quán và những quy định về chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực văn hóa theo xã hội Việt Nam, thì việc cấm những người có quan hệ huyết thống kết hôn với nhau còn có tác dụng làm lành mạnh các mối quan hệ trong gia đình, phù hợp với đạo đức và truyền thống từ xưa đến nay của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, hiện tượng kết hôn cận huyết vẫn tồn tại ở một số dân tộc miền núi và vẫn là một vấn đề vô cùng nhức nhối[2].
Kết hôn giữa những người cùng giới tính
Một trong những chức năng không thể thiếu được của gia đình đó chính là chức năng sinh sản. Mà chức năng này chỉ có thể được thực hiện bởi hai chủ thể khác nhau về giới tính. Do đó, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 đã dựa trên căn cứ thực hiện chức năng của gia đình và không thừa nhận kết hôn đồng giới. Trên thế giới, các cặp đồng tính đã phản ứng rất mạnh mẽ đòi quyền tự do kết hôn, một số nước như Thụy Điển, Đan Mạch hay Mĩ đã thừa nhận và cho phép kết hôn giữa những cặp đồng tính[3]. Hiện nay, việc có công nhận hôn nhân đồng giới hay không đang là vấn đề nhạy cảm và rất được quan tâm trong quá trình lấy ý kiến về Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi.
Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về đăng ký kết hôn
Điểm mới nổi bật của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đó là các quy định về việc đăng ký kết hôn đã cụ thể hơn và mang tính ràng buộc cao hơn. Đăng ký kết hôn là một nghi thức bắt buộc, chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc kết hôn cho họ thì giữa họ mới phát sinh quan hệ vợ chồng. Về thẩm quyền đăng ký kết hôn cũng được quy định rõ theo Điều 17 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ: Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn.
Như vậy có thể nhận xét về tình trạng kết hôn vi phạm điều kiện đăng ký hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp. Và những vi phạm đó thường là chỉ được phát hiện khi hai bên có yêu cầu giải quyết ly hôn tại Tòa án. Điều đó chứng tỏ, những vi phạm này là những vi phạm rất khó nhận biết, tuy không ảnh hưởng nhiều đến quyền và lợi ích của các bên nhưng lại gây khó khăn cho các cơ quan quản lý hộ tịch trong việc xác định quan hệ hôn nhân, tình trạng hôn nhân của các công dân.
Sự tồn tại của quan hệ hôn nhân trái pháp luật không phù hợp với bản
chất của quan hệ hôn nhân, đi trái với lợi ích mà pháp luật quan tâm bảo vệ.
Vì vậy Nhà nước dùng biện pháp cưỡng chế đối với những vi phạm là buộc
các bên phải chấm dứt việc chung sống trong quan hệ vợ chồng. Điều đó thể
hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước trước những hành vi vi phạm trong
việc kết hôn và cũng khẳng định rằng trong việc kết hôn thì lợi ích của
những người kết hôn phải phù hợp với lợi ích gia đình và xã hội[4].
2. Thực trạng pháp luật về hủy kết hôn trái pháp luật
Vấn đề hủy kết hôn trái pháp luật đã được đề cập đến trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, tuy nhiên chỉ dành một điều luật (Điều 9) để điều chỉnh quan hệ này. Hiện nay, vấn đề này được quy định rõ ràng hơn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và được cụ thể hóa tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
2.1. Về yêu cầu xử hủy kết hôn trái pháp luật
Theo yêu cầu của bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn; yêu cầu của Viện kiểm sát; yêu cầu của vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn, Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ hoặc của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác, thì Tòa án xem xét và quyết định hủy kết hôn trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn. Căn cứ vào quyết định của Tòa án, cơ quan đăng ký kết hôn xóa đăng ký kết hôn trong sổ đăng ký kết hôn. Về nguyên tắc, việc kết hôn vi phạm một trong các điều kiện kết hôn thì cuộc hôn nhân đó là trái pháp luật, khi có yêu cầu, Tòa án có quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật đó. Tuy nhiên, trong từng trường hợp cụ thể, Tòa án cần xem xét, đánh giá thực chất mối quan hệ tình cảm giữa họ để từ đó có quyết định xử lý đúng đắn, bảo đảm quyền lợi chính đáng của các bên.
Khoản 1 Điều 15 quy định: Bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định về tự nguyện, tự do ý chí của các bên. Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình mới chỉ quy định việc kết hôn không tuân thủ điều kiện kết hôn là trái pháp luật và có thể bị tòa án xem xét, quyết định hủy việc kết hôn đó. Tuy nhiên, Luật chưa quy định cụ thể các trường hợp kết hôn trái pháp luật cần thiết phải xử hủy và những trường hợp kết hôn trái pháp luật không cần thiết phải xử hủy mà cần công nhận hôn nhân cho các bên đương sự.
Theo điểm d mục 2 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì:
*Đối với những trường hợp kết hôn khi một bên hoặc cả hai bên chưa đến tuổi kết hôn, thì tuỳ từng trường hợp mà quyết định như sau:
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà một bên hoặc cả hai bên vẫn chưa đến tuổi kết hôn thì quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên tuy đã đến tuổi kết hôn, nhưng cuộc sống của họ trong thời gian đã qua không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng, thì quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên đã đến tuổi kết hôn, trong thời gian đã qua họ chung sống bình thường, đã có con, có tài sản chung thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
*Đối với những trường hợp kết hôn khi một bên bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép, thì tuỳ từng trường hợp mà quyết định như sau:
- Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà cuộc sống không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng, thì quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà bên bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép đã biết, nhưng đã thông cảm, tiếp tục chung sống hoà thuận thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
*Đối với những trường hợp kết hôn thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 10 là vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại điểm 3 Điều 9 và nói chung là phải quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu thuộc trường hợp quy định tại điểm 1 Điều 10 cần chú ý:
- Nếu thuộc trường hợp cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc hồi năm 1954, đã có vợ, có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc thì vẫn xử lý theo Thông tư số 60/TATC ngày 22/02/1978 của Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác".
- Nếu khi một người đang có vợ hoặc có chồng, nhưng tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mà đã kết hôn với người khác, thì lần kết hôn sau là thuộc trường hợp cấm kết hôn quy định tại điểm 1 Điều 10. Tuy nhiên, khi có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật họ đã ly hôn với vợ hoặc chồng của lần kết hôn trước, thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật đối với lần kết hôn sau. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
2.2. Hậu quả pháp lý của việc kết hôn trái pháp luật
Hôn nhân là cơ sở của gia đình, "là một trong những hành vi của nhân loại mà xã hộ quan tâm hơn cả, nên cần phải được điều tiết bằng các đạo luật, bởi lẽ "hậu quả của hôn nhân có liên quan đến tài sản, đến điều lợi của đôi bên vợ chồng, tất cả những gì liên quan đến cái gia đình mới lập, đến gia đình gốc của đôi bên, đến những việc mà hôn nhân phải tạo ra... thì đều liên quan đến các điều luật"[5]. Vì vậy, hôn nhân phải tuân thủ các điều kiện mà pháp luật quy định, nếu vi phạm những điều kiện đó, thì được coi là kết hôn trái pháp luật. Nhằm góp phần ổn định trật tự xã hội và giữ vững bản chất của gia đình, Nhà nước cần có biện pháp chế tài cần thiết đối với những cá nhân đã xác lập hôn nhân trái pháp luật. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định chế tài đối với hành vi kết hôn trái pháp luật chính là không công nhận (hủy) cuộc hôn nhân của hai bên. Theo đó, hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp xử lý đối với những trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn, nhằm bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh Luật Hôn nhân và gia đình. Khi Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật, tất yếu sẽ có những hậu quả pháp lý xảy ra cần được giải quyết.
*Hậu quả pháp lý về quan hệ nhân thân
Bên cạnh ly hôn, thì hủy kết hôn trái pháp luật cũng dẫn đến chấm dứt quan hệ hôn nhân. Bởi vì, khi hôn nhân bị coi là trái pháp luật, thì Nhà nước không thừa nhận hai người trong quan hệ hôn nhân đó là vợ chồng, do đó, kể từ thời điểm các bên bắt đầu chung sống với nhau cho đến khi tòa hủy việc kết hôn trái pháp luật thì hai người chưa từng phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng hợp pháp. Kể từ ngày quyết định hủy kết hôn trái pháp luật của Tòa án có hiệu lực pháp luật, thì hai bên nam, nữ phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng. Như vậy, nếu trước khi tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật, hai bên đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ về nhân thân với nhau, thì khi có quyết định hủy của Tòa án các bên phải chấm dứt quyền và nghĩa vụ đó. Tuy nhiên trên thực tế, chế tài buộc chấm dứt quan hệ nhân thân này rất khó thực hiện, bởi lẽ, đó là quan hệ tình cảm và những gì liên quan đến đời sống tinh thần. Ngoại trừ những cuộc hôn nhân khi một trong hai bên bị lừa dối, cưỡng ép họ tự nguyện từ bỏ cuộc hôn nhân trái pháp luật, thì rất nhiều trường hợp khi Tòa án đã hủy việc kết hôn trái pháp luật nhưng các bên vẫn duy trì mối quan hệ tình cảm, vẫn yêu thương chăm sóc lẫn nhau, là chỗ dựa tinh thần cho nhau trong cuộc sống. Những cuộc hôn nhân như vậy, có nhất thiết phải xử hủy hay không?
*Hậu quả pháp lý về quan hệ giữa cha, mẹ và con
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em, pháp luật hôn nhân và gia đình nước ta quy định quan hệ giữa cha, mẹ và con không phụ thuộc vào cuộc hôn nhân của cha mẹ có hợp pháp hay không, còn tồn tại hay chấm dứt. Vì vậy, mặc dù hai người nam, nữ kết hôn trái pháp luật không được công nhận là vợ chồng, nhưng vẫn là cha và mẹ của con chung, khi quan hệ hôn nhân đó bị hủy, thì "quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn" (khoản 2 Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Theo đó, sau khi quyết định hủy có hiệu lực, hai bên vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Hai bên thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với con, nếu không thỏa thuận được, thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Về nguyên tắc, con dưới 3 tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu hai bên không có thỏa thuận khác. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc thay đổi này được thực hiện trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con và phải tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên. Sau khi đã chấm dứt quan hệ hôn nhân trái pháp luật, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con, thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
*Hậu quả pháp lý về tài sản
Theo khoản 3 Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thì tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo nguyên tắc thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con.
Tài sản riêng theo Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 bao gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng; đồ dùng, tư trang cá nhân. Khi Tòa án hủy quan hệ hôn nhân trái pháp luật thì tài sản riêng của ai vẫn thuộc về người đó. Tuy nhiên, người có tài sản riêng cần phải chứng minh tài sản này thuộc quyền sở hữu riêng của mình, nếu không chứng minh được, thì tài sản đó được coi là tài sản chung và đem chia.
Điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và năm 1986 là quy định khi chia tài sản chung trong trường hợp Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật, thì "ưu tiên bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con".
3. Một số kiến nghị
Trên thực tế, việc kết hôn trái pháp luật vẫn xảy ra. Tuy nhiên, biện pháp hủy hôn nhân trái pháp luật lại rất ít được áp dụng. Qua đó có thể thấy rằng, việc thực thi các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này còn chưa hiệu quả. Nguyên nhân là do những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành còn mang tính nguyên tắc, chung chung, khó áp dụng. Vì vậy, để thực sự phát huy tác dụng trong cuộc sống, pháp luật hôn nhân và gia đình về hủy kết hôn trái pháp luật cần quy định cụ thể nguyên tắc xác định quan hệ cha mẹ và con, về chia tài sản (như cơ sở hình thành tài sản chung, nguyên tắc chia tài sản...).
Cần nghiên cứu luật hóa những quy định của điểm d mục 2 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về từng trường hợp cụ thể để xem xét, quyết định hủy kết hôn trái pháp luật hay công nhận hôn nhân cho các đương sự. Trên thực tế, việc kết hôn trái pháp luật do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng trong nhiều trường hợp, trong quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc và bản thân người vợ hoặc người chồng không có yêu cầu hủy việc kết hôn, thì không nhất thiết phải hủy quan hệ hôn nhân đó.
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình cho nhân dân, đặc biệt là nhân dân ở vùng hải đảo, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đồng thời, cần tăng cường vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Nội dung bài viết:
Bình luận