Có thể nói, từ quan điểm của Mác - Lênin đến thực tiễn thế giới trong thời điểm hiện nay, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhà chính trị khác nhau trên thế giới.
Vậy, thời kỳ quá độ ở đây có thể được hiểu là gì?
Trong khuôn khổ bài viết này, công ty luật ACC sẽ cùng quý bạn đọc tìm hiểu về vấn đề này.
1. Thời kỳ quá độ là gì?
Theo đúng lý luận Mác - Lênin, các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới một thế kỷ qua, xét về tương quan kinh tế - kỹ thuật so với các nước phương Tây, đều là những xã hội ở thời kỳ quá độ trình độ thấp, tức là gián tiếp từ xã hội tư bản chủ nghĩa chưa phát triển, hoặc xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, các nước này, một mặt, đã đi vào con đường xã hội chủ nghĩa; mặt khác, trong thời gian đầu trình độ kinh tế - kỹ thuật đương nhiên vẫn thấp hơn so với các nước phương Tây.
Có thể hiểu một cách khái quát, thời kỳ quá độ là thời kì cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của chủ nghĩa xã hội.
2. Thời kỳ quá độ trên thế giới
Cách mạng Tháng Mười khởi đầu thời kỳ quá độ gián tiếp ở nước Nga, đồng thời mở ra “thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới”. Từ đây, các nước trên thế giới, kể cả nước lạc hậu, với những điều kiện nhất định, đều có thể bước vào thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, không phải là tất cả các nước sẽ đồng loạt, đồng thời tiến vào thời kỳ quá độ. Một số nước có thể thực hiện thời kỳ quá độ trước. Trong khi ấy, giai đoạn quá độ ở phương Tây có thể vẫn kéo dài. Nhiều nước tư bản chủ nghĩa trung bình, nước lạc hậu, có thể còn lâu nữa mới bước vào thời kỳ quá độ.
![Thời Kỳ Quá độ Là Gì (cập Nhật 2022)](https://cdn.accgroup.vn/wp-content/uploads/2022/10/Thoi-ky-qua-do-la-gi-Cap-nhat-2022-300x179.jpg)
Thời kỳ quá độ là gì? (Cập nhật 2022)
Sau Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc phương Tây thường xuyên đe dọa, rồi trực tiếp tấn công Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa: cuộc chiến tranh can thiệp vào nước Nga Xô-viết (1918 - 1921); chiến tranh xâm lược Liên Xô (1941 - 1945); chiến tranh lạnh chống phe xã hội chủ nghĩa (1945 - 1991); chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ (1945 - 1975); các cuộc chiến tranh xâm lược Triều Tiên (năm 1953), Cu-ba (năm 1961). Ngoài ra, phương Tây còn tiến hành bao vây kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa, ra sức đàn áp phong trào giải phóng dân tộc;...
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời, chủ nghĩa tư bản phương Tây thi hành hàng loạt biện pháp: từ độc quyền nhà nước chuyển thành độc quyền quốc tế; thiết lập trật tự thế giới do phương Tây dẫn dắt với các định chế kinh tế, chính trị, quân sự khu vực và toàn cầu, như NATO, IMF, WB, WTO để thống trị, chi phối thế giới; đẩy mạnh cải tiến quản lý sản xuất; chia sẻ lợi nhuận cho bộ phận công nhân quý tộc, tạo cách biệt giữa công nhân phương Tây với công nhân các nước đang phát triển để tiếp tục bóc lột các nước đó; thúc đẩy cách mạng khoa học - kỹ thuật để tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất; tấn công phe xã hội chủ nghĩa về mọi mặt bằng Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng cục bộ, răn đe hạt nhân...
Từ 1989 - 1991 đến nay, phương Tây thực hiện chiến lược đẩy mạnh toàn cầu hóa để tái cấu trúc trật tự thế giới có lợi cho mình; tiếp tục thúc đẩy cách mạng khoa học - công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động; phát triển thị trường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, gia tăng tỷ suất và tổng lợi nhuận; tăng cường kiềm chế Nga, Trung Quốc; chiếm đoạt thị trường Đông Âu; phân hóa, chiếm lĩnh không gian hậu Xô-viết; ra sức chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại; tiếp tục khống chế, chi phối các nước đang phát triển; thúc đẩy các lực lượng phản động trỗi dậy ở một số nước theo xu hướng xã hội chủ nghĩa trước đây; tấn công xâm lược can thiệp lật đổ chính phủ một số nước dân tộc độc lập, tiến bộ...
Đến nay phương Tây vẫn duy trì được chế độ tư hữu TBCN, phát triển kinh tế, và dồn đẩy mọi mâu thuẫn, hệ lụy, mặt trái của sự thịnh vượng ích kỷ nhờ tranh đoạt, cướp bóc các nước lạc hậu, nghèo nàn. Dù đã đạt đến lô-gíc vận động cơ bản từ lâu, nhưng đến nay CNTB vẫn tạm thời kéo dài sự tồn tại quá thời về lịch sử của nó.
3. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Từ Hội nghị Trung ương 1 Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10-1930) đến Hội nghị Trung ương 9 khóa VI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 8-1990), thời kỳ quá độ luôn được xác định là: “do được các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ, nên bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”, tức là nửa trực tiếp. Đại hội II Đảng Lao động Việt Nam (tháng 02-1951) nêu rõ: thời kỳ quá độ ở Việt Nam có điểm xuất phát thấp hơn, cho nên lâu dài, khó khăn hơn. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) mở ra thời kỳ đổi mới, bắt đầu thực hiện đa dạng hóa sở hữu - một trong những nội dung quan trọng nhất của NEP, nhưng vẫn nêu thời kỳ quá độ ở nước ta là “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Từ Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đến nay, đường lối thực hiện thời kỳ quá độ được xác định là “bỏ qua chế độ thời kỳ quá độ”, tức là thời kỳ quá độ gián tiếp, và được xây dựng, phát triển ngày càng hoàn thiện. Hội nghị Trung ương 8 khóa VII (tháng 1-1995) khẳng định: trong điều kiện không còn sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhưng có thể tranh thủ được nguồn lực từ hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế; bỏ qua chế độ TBCN, nhưng kế thừa mọi thành tựu và kinh nghiệm của nhân loại, kể cả của CNTB. Đại hội IX của Đảng nêu rõ, bỏ qua sự thống trị của QHSX TBCN, nhưng tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ trong CNTB...
Hiện nay, để tiếp tục giữ vững, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, Việt Nam cần đẩy mạnh vận dụng sáng tạo, phát triển tư tưởng, đường lối của V. I. Lênin về thời kỳ quá độ gián tiếp với một số điểm chú ý sau:
Thực tế thành công lẫn thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới một thế kỷ qua đều chứng minh lý luận của V. I. Lênin về TKQĐ gián tiếp là đúng đắn. Để phát triển, tiến bộ nhanh, mạnh, bền vững, mà không lặp lại những hạn chế của CNTB, các nước đang phát triển vẫn có thể và cần phải thực hiện TKQĐ này. Điều đổi mới nhận thức về thời kỳ quá độ đó là bỏ qua chính trị TBCN, mà vẫn sử dụng, khai thác kinh tế CNTB để phục vụ cho chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là phát triển LLSX, kinh nghiệm quản lý, trình độ khoa học - công nghệ... đồng thời với vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa sẽ điều tiết sự phát triển nhân văn hơn.
Để giữ được bản chất và định hướng XHCN trong thực hiện đường lối về thời kỳ quá độ gián tiếp, thì phải bảo đảm: một là, khi thực hiện, QHSX TBCN và giai cấp tư sản tuyệt nhiên không thể trở thành thống trị; hai là, người đại diện (nhà nước XHCN) cho chủ sở hữu (quần chúng nhân dân) không thể thay thế hoàn toàn chính người chủ sở hữu này, để trở thành một chủ sở hữu mới trên thực tế. Những điều này phụ thuộc vào việc, Đảng phải luôn kiên định và sáng tạo trong lãnh đạo thực hiện mục tiêu, con đường lên chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng lý luận, đường lối chính trị của V. I. Lênin về thời kỳ quá độ gián tiếp, cần kết hợp thống nhất, chặt chẽ, chuyển đổi linh hoạt, hợp lý hai chính sách chủ yếu trên. Đồng thời, phải đổi mới, phát triển chúng phù hợp với điều kiện trong nước./.
CÔNG TY LUẬT ACC
Tư vấn: 1900.3330
Zalo: 084.696.7979
Fanpage: : ACC Group – Đồng Hành Pháp Lý Cùng Bạn
Mail: [email protected]
Nội dung bài viết:
Bình luận