Tìm hiểu điều 23 Bộ Luật Hình Sự 1999 về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn mà người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi đó. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự do Bộ luật hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.Trong bài viết dưới đây, Công ty Luật ACC xin gửi tới quý khách hàng thông tin về Tìm hiểu điều 23 Bộ Luật Hình Sự 1999 về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Mời khách hàng cùng theo dõi.
 
Bộ Luật Hình Sự 2015 Sửa đổi Bổ Sung 2017
bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017

1. Tìm hiểu điều 23 Bộ Luật Hình Sự 1999 về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Bộ luật hình sự 2015 (khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự 1999) thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

- Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng.

Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm (điểm a, khoản 2 Điều 1 Bộ luật hình sự 2017).

- Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;

Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù (điểm b, khoản 2 Điều 1 Bộ luật hình sự 2017).

- Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;

Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù (điểm c, khoản 2 Điều 1, Bộ luật hình sự 2017).

- Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (điểm d, khoản 2 Điều 1 Bộ luật hình sự 2017).

Ví dụ một số tội được xác định là tội đặc biệt nghiêm trọng như: Tội phản bội tổ quốc thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 108 Bộ luật hình sự 2015; tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 109 Bộ luật hình sự 2015; tội giết người thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự 2015; tội tàng trữ trái phép chất ma tuý thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015; tội vận chuyển trái phép chất ma túy thuộc trường hợp thuộc khoản 4, Điều 250 Bộ luật hình sự 2015; tội mua bán trái phép chất ma túy thuộc trường hợp khoản 4, Điều 251 Bộ luật hình sứ 2015;…

Việc xác định tội phạm nào là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng không phức tạp, chỉ cần căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy. Nếu mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù là tội phạm ít nghiêm trọng; đến bảy năm tù là tội phạm nghiêm trọng; đến mười lăm năm tù là tội phạm rất nghiêm trọng; đến chung thân hoặc tử hình là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự không phải tội phạm nào nhà làm luật cũng quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 3 năm, 7 năm, 15 năm, chung thân hoặc tử hình, mà trong nhiều trường hợp nhà làm luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt là một năm, hai năm, bốn năm, năm năm, sáu năm, tám năm, mười năm, mười hai năm và hai mươi năm. Mặc dù Bộ luật hình sự đã có hiệu lực pháp luật lâu dài và qua nhiều lần thay thế, sửa đổi, bổ sung nhưng đến nay vẫn còn quan điểm cho rằng, nếu mức cao nhất của khung hình phạt không phải là 7 năm thì chưa phải là tội phạm nghiêm trọng, không phải là 15 năm thì chưa phải là tội phạm rất nghiêm trọng, không phải là chung thân hoặc tử hình thì chưa phải là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Ví dụ: khoản 1 Điều 168 BLHS 2015 (tội cướp tài sản) có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm chưa phải là tội phạm rất nghiêm trọng mà chỉ là tội phạm nghiêm trọng. Quan điểm thiết nghĩ là không đúng với quy định của Bộ luật hình sự, vì nhà làm luật chỉ quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy “đến” ba năm, bảy năm, mười lăm năm, chung thân hoặc tử hình chứ không quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy “là” ba năm, bảy năm, mười lăm năm, chung thân hoặc tử hình.

“Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện” (Khoản 3, Điều 27 Bộ luật hình sự 2015).

Quý khách hàng có thể sẽ quan tâm:
Có thể bạn quan tâm:

2. Giới thiệu dịch vụ pháp lý của Công ty Luật ACC

Đến với ACC chúng tôi, Quý khách sẽ được cung cấp những dịch vụ tư vấn tốt nhất với đội ngũ Luật sư dày dặn kinh nghiệm cùng với chuyên viên pháp lý luôn có mặt trên 63 tỉnh/thành phố đã và đang thực hiện dịch vụ tư vấn pháp lý.
>>>Tại ACC cũng cung cấp Công văn 1379/BHXH-BT, mời bạn đọc tham khảo!!
Trên đây là toàn bộ thông tin tư vấn của Công ty Luật ACC liên quan đến Tìm hiểu điều 23 Bộ Luật Hình Sự 1999 về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn bất cứ thắc mắc gì quý khách vui lòng liên hệ với chúng tôi thông qua tổng đài tư vấn hoặc gửi thư về các thông tin dưới đây. Chúng tôi hy vọng nhận được nhiều ý kiến đóng góp của quý khách hàng trên cả nước để chúng tôi ngày một chuyên nghiệp hơn:
Hotline: 1900.3330
Zalo: 0846967979
Website: accgroup.vn
✅ Thủ tục: ⭕ Cụ thể - Chi tiết
✅ Dịch vụ: ⭐ Trọn gói - Tận Tâm
✅ Zalo: ⭕ 0846967979
✅ Hỗ trợ: ⭐ Toàn quốc
✅ Hotline: ⭕ 1900.3330

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo