Thế nào là tham nhũng?

1. Khái niệm tham nhũng

Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trái pháp luật để thu lợi vật chất, gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước, của tập thể, cá nhân, làm ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. . Trong pháp luật hình sự Việt Nam, nhiều hành vi tham nhũng cụ thể như tham ô, nhận hối lộ, v.v. được quy định tương đối sớm.

Tham nhũng là gì? Năm 2023 công chức tham nhũng bị xử lý thế nào? - TH Điện  Biên Đông
2. Khách thể của tội tham nhũng

Chủ thể của tội phạm tham nhũng không chỉ liên quan đến khu vực nhà nước, những người có chức vụ thực thi công vụ mà còn mở rộng ra cả khu vực ngoài nhà nước. Những người này bao gồm: cán bộ, viên chức làm việc trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân, cơ quan, đơn vị Công an nhân dân. Lãnh đạo chuyên môn và quản lý doanh nghiệp, người đứng đầu thành phố, quận, huyện.
Tội về chức vụ trong khu vực ngoài nhà nước áp dụng đối với 4 tội: “Tội tham ô tài sản”, “Tội nhận hối lộ”, “Tội môi giới hối lộ” và “Tội đưa hối lộ”. Trong đó, tội hối lộ bao gồm 2 tội: “Tham ô tài sản” quy định tại khoản 6 Điều 353 và tội “Nhận hối lộ” quy định tại khoản 6 Điều 354. Luật này cũng quy định các biện pháp trừng phạt hình sự đối với hành vi tham nhũng của các quan chức nước ngoài và các tổ chức quốc tế công. Đồng thời, mở rộng nội dung tội “tham ô tài sản” đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo quy định của BLHS 1999, “của hối lộ” chỉ bao gồm tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị bằng tiền. BLHS 2015 bổ sung “lợi ích phi vật chất” vào tội danh nhận hối lộ, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi.

Hành vi đưa hối lộ được định nghĩa chính xác hơn: “Người trực tiếp hoặc thông qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc cho cá nhân, tổ chức khác một trong những lợi thế sau đây để có được địa vị, chức vụ. và quyền được làm hoặc không được làm một việc vì lợi ích của người đưa hối lộ hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ” (khoản 1 Điều 354). Điều luật mới được bổ sung có cấu thành tăng nặng khung hình phạt đối với một số tội danh nhất định. Ví dụ, Điều 353 tội tham ô tài sản, bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự: chiếm đoạt tiền, tài sản vì mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, trợ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; dành quỹ hoặc các loại tiền, tài sản khác để trợ cấp, viện trợ cho vùng bị thiên tai, dịch bệnh, vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn; phá hoại an ninh, trật tự, an toàn xã hội...

3. Các loại tội tham nhũng

Theo Mục 1 Chương XXIII BLHS 2015, các tội phạm về tham nhũng bao gồm:

- Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 253);

- Tội nhận hối lộ (Mục 354);

- Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản (điều 355);

- Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong thi hành công vụ (điều 356);

- Tội lạm quyền trong thi hành công vụ (điều 357);

- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (điều 358);

- Tội giả mạo tại nơi làm việc (điều 359).

4. Những hành vi bị coi là tham nhũng

Căn cứ Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định các hành vi tham nhũng gồm:

– Tham ô tài sản;

– Nhận hối lộ;

– Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;

– Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi;

– Giả mạo trong công tác vì vụ lợi;

– Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi;

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi;

– Nhũng nhiễu vì vụ lợi;

– Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Theo Điều 27 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:

“ 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng”.
“ 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
“ Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện”.
Căn cứ vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nên có nhiều vụ án tham nhũng thực hiện cách đây 10 hoặc 15 năm đến năm 2019 mới bị khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can để thực hiện điều tra, xử lý. Quy định của BLHS về các tội phạm về tham nhũng cho thấy Đảng, Nhà nước Việt Nam rất coi trọng việc đấu tranh chống người có hành vi tham nhũng giống như các tội phạm khác trong BLHS hiện hành.
Trong quá trình thi hành BLHS năm 2015, nhiều đối tượng phạm tội tham nhũng đã bị phát hiện, xét xử tại tòa án nhưng tội phạm tham nhũng không giảm mà ngày càng phức tạp, thậm chí tội phạm chủ yếu do người đã cử người có thẩm quyền giám sát, kiểm tra, giám sát. xem xét các hành vi tham nhũng.

5. Tội tham ô

Theo quy định tại Điều 353 BLHS 2015 thì tội tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng mà đã bị xử phạt về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này (từ Điều 353 đến Điều 359), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. thực hiện tội phạm do người từ đủ 16 tuổi trở lên và không trong tình trạng mất năng lực trách nhiệm hình sự (điều 12, điều 21 BLHS 2015) với lỗi cố ý trực tiếp (khoản 1 Điều 10 BLHS 2015).
Khách thể: là các quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức trong nhà nước và các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước; làm suy yếu, mất uy tín của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đó; làm mất lòng tin của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hết sức cấp bách và cần thiết.

Hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản đã làm hư hỏng tài sản do người phạm tội quản lý. Tài sản đó bao gồm tài sản của Chính phủ giao cho cơ quan, tổ chức thuộc Chính phủ hoặc tài sản của doanh nghiệp, tổ chức ngoài Chính phủ.
Mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội tham ô tài sản là hành vi lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản do người phạm tội quản lý. Hành vi chiếm đoạt tài sản đó liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của người phạm tội, nếu người phạm tội không có chức vụ, quyền hạn đó thì rất khó hoặc không thể thực hiện được hành vi chiếm đoạt tài sản. . Chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc chiếm đoạt tài sản một cách dễ dàng.
Người tham ô tài sản thuộc 01 trong 03 trường hợp sau đây mới phạm tội tham ô tài sản:

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên; lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi tham ô tài sản mà còn vi phạm.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về một trong các tội: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; lạm quyền trong khi thi hành công vụ.

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Người nào tuy tham ô tài sản nhưng trị giá dưới 2.000.000 đồng và chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi tham ô tài sản, cũng chưa bị kết án về một trong các tội: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; lạm quyền trong khi thi hành công vụ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác hoặc tuy đã bị kết án về một trong các tội: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; lạm quyền trong khi thi hành công vụ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác nhưng đã được xóa án tích thì không phạm tội tham ô tài sản. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản do mình quản lý có giá trị dưới 2.000.000 đồng, kể cả khi đã bị xử phạt về tội tham ô tài sản bằng một trong các hình thức sau đây: cơ quan, đơn vị, tổ chức nhưng đã hết thời hạn xóa kỷ luật thì không phải là tội tham ô tài sản.
Nếu người phạm tội có ý định chiếm đoạt 2.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng mà chưa chiếm đoạt thì hầu như không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu hành vi chiếm đoạt tài sản do người có chức năng, quyền hạn thực hiện không liên quan gì đến chức năng, quyền hạn của người đó thì dù có chức năng, quyền hạn cũng không bị coi là lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Chủ thể: Chủ thể của tội tham ô tài sản là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức hoặc doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước đủ 16 tuổi trở lên và không ở trong tình trạng mất năng lực trách nhiệm hình sự ( Điều 12, Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015). Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm là dấu hiệu quan trọng nhất trong việc định tội danh. Sự khác biệt giữa tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với các tội khác có tính chất chiếm đoạt còn là sự khác biệt về dấu hiệu chủ thể của tội phạm.

6. Thu hồi tài sản tham nhũng

Một vấn đề trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng được nhiều người quan tâm là việc thu hồi tài sản bị tham nhũng chiếm đoạt.
Về vấn đề này, các phương tiện thông tin đại chúng chỉ đưa tin về số lượng những kẻ tham nhũng bị trừng phạt trong từng vụ án và số tài sản mà những kẻ tham nhũng bị chiếm đoạt. Còn tài sản chính đáng có vớt được hay không, vớt được bao nhiêu thì người dân không biết. Tìm hiểu vấn đề này, cho đến nay chưa có quy định nào của cơ quan nhà nước hữu quan quy định chế độ báo cáo hàng năm về kết quả thu hồi tài sản bị chiếm đoạt từ người tham nhũng.
Để góp phần đấu tranh phòng chống tham nhũng, các cơ quan nhà nước có liên quan nên đưa các chủ đề sau vào kế hoạch hoạt động hàng năm của mình:

- Tiếp tục tuyên truyền pháp luật về tội phạm tham nhũng.

-Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế báo cáo về tình hình phòng, chống tham nhũng.
- Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở địa phương và trung ương có báo cáo kết quả giải quyết vụ án tham nhũng với số liệu về số vụ đã giải quyết, số tài sản bị tham nhũng chiếm đoạt, số tài sản chiếm đoạt đã thu hồi, số tài sản còn lại phải thu hồi.
- Các cơ quan thi hành án dân sự ở trung ương cần báo cáo kết quả thi hành án dân sự đối với tội phạm tham nhũng. Có số liệu về số tài sản tham nhũng đã thi hành và số tài sản tham nhũng còn phải thi hành

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo