Thẩm quyền của trọng tài thương mại năm 2024

Thẩm quyền của trọng tài thương mại năm 2023
Thẩm quyền của trọng tài thương mại năm 2023

1. Căn cứ xác định thẩm quyền của Trọng tài 

Các lý thuyết về trọng tài cũng như thực tiễn trọng tài thường đưa ra khái niệm “thẩm quyền xét xử” (Competence/Competence). Đây cũng là  vấn đề quan trọng  liên quan đến thẩm quyền của trọng tài. Vấn đề “thẩm  quyền” được hiểu là khi có sự phản đối về thẩm quyền của hội đồng trọng tài đối với một tranh chấp (lúc mở phiên tòa, trong quá trình giải quyết trọng tài) thì “ai” sẽ là người có thẩm quyền? Đại đa số  luật trọng tài quốc tế cũng như các quy tắc  trọng tài quốc tế đều công nhận thẩm quyền của hội đồng trọng tài trong việc xem xét liệu họ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hay không. Quyết định về thẩm quyền  được bao gồm trong quyết định tạm thời hoặc quyết định cuối cùng của hội đồng trọng tài. 

1.1. Thẩm quyền Trọng tài Việt Nam 

Thẩm quyền của trọng tài Việt Nam được quy định trong Luật Trọng tài Thương mại  2010 như sau: 

Căn cứ Mục 5 Khoản 1  Luật Trọng tài thương mại 2010: 

Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên đã ký kết thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được ký kết trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.

Như vậy, để một vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại thì điều kiện đầu tiên phải là sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài giữa các bên  tranh chấp. Ở đây,  có thể thấy sự tôn trọng thỏa thuận của các bên: trọng tài thương mại chỉ có thẩm quyền phán quyết khi được các bên lựa chọn trong “vụ việc”, không có bất kỳ sự ép buộc nào, tất cả đều  trên cơ sở tự nguyện. Hơn nữa, thời điểm của một thỏa thuận  trọng tài như vậy thường được coi là rất cởi mở và linh hoạt để các bên  lựa chọn, không nhất thiết phải có trước mà có thể là sau khi  tranh chấp phát sinh. thực hiện đúng, không làm vô hiệu thỏa thuận trọng tài thì việc giải quyết sẽ được thực hiện bằng hình thức trọng tài thương mại.  

Điều 2. Thẩm quyền giải quyết  tranh chấp của Trọng tài 

1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.  
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên mà trong đó có ít nhất một bên tham gia hoạt động thương mại. 

3. Các tranh chấp khác giữa các bên theo quy định của pháp luật sẽ được giải quyết bằng trọng tài. Trong trường hợp các bên tranh chấp đã  thoả thuận được tại Trọng tài mà một bên khởi kiện ra Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thi hành được.

Như vậy, Luật Trọng tài đã dỡ bỏ giới hạn của Pháp lệnh về thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại bằng cách mở rộng thẩm quyền của trọng tài đối với nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên, ngoài việc có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. pháp luật để mở ra khả năng trọng tài có thẩm quyền giải quyết  tranh chấp không phát sinh từ hoạt động thương mại nhưng được pháp luật  liên quan quy định. Việc mở rộng thẩm quyền  của trọng tài thương mại là hoàn toàn hợp lý, đã khắc phục phần nào  những hạn chế của Trật tự trọng tài thương mại  2003, đồng thời đảm bảo  sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật thương mại, Luật đầu tư và Luật chuyên ngành. Có thể nói đây là  điểm  trọng tài thương mại mới hoàn toàn phù hợp với thực tế. Theo quy định của Luật Trọng tài 2010, bất kỳ tổ chức, cá nhân nào cũng có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài viên để giải quyết tranh chấp (Khoản 2 và 3 Mục 2 Luật Trọng tài Thương mại 2010 đề cập đến trường hợp các bên không thỏa thuận được) hoạt động thương mại), với điều kiện lĩnh vực đó phát sinh theo quy định của pháp luật. Điều này đã góp phần quan trọng khắc phục những khó khăn của các trung tâm trọng tài và  cá nhân muốn lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp.  

1.2. Thẩm quyền của trọng tài quốc tế 

Trọng tài thương mại quốc tế không có  quyền tài phán đương nhiên, chỉ  khi các bên thỏa thuận lựa chọn. Thỏa thuận trọng tài có thể phát sinh trước hoặc sau thời điểm phát sinh tranh chấp 

Điều 21(1) Quy tắc Trọng tài UNCITRAL 1976 quy định: 

Hội đồng trọng tài có quyền quyết định về việc phản đối Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết, kể cả những sự phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của điều khoản trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài riêng biệt”.  

Hoặc khoản 1 Điều 23 Quy tắc Trọng tài UNCITRAL 2010 quy định: 

"Hội đồng trọng tài có thẩm quyền quyết định về thẩm quyền của chính nó, bao gồm bất kỳ sự phản đối nào có liên quan tới sự tồn tại và hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Vì mục đích đó, một điều khoản trọng tài là một phần của hợp đồng sẽ độc lập với phần còn lại của hợp đồng. Một quyết định của hội đồng trọng tài cho rằng hợp đồng vô hiệu sẽ không tự động làm cho điều khoản trọng tài vô hiệu theo." 

 Tại khoản 1 Điều 16 Luật Mẫu của UNCITRAL 2006 cũng có những quy định tương tự: 

 "Hội đồng trọng tài có thể quyết định về thẩm quyền xét xử của chính mình, kể cả những ý kiến phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài." 

Hầu hết pháp luật các nước đều thừa nhận “nguyên tắc thẩm quyền của thẩm quyền” như là một nguyên tắc cơ bản khi xem xét về thẩm quyền của một trọng tài. Nguyên tắc này dễ dàng tìm thấy trong pháp luật trọng tài của Thụy Sĩ, Đức, Hoa Kỳ, Pháp, Anh v.v. Ví dụ, khoản 1 Điều 1040 Luật Trọng tài Đức 1998 quỵ định: 

'Hội đồng trọng tài có thể phản quyết về thẩm quyền của chính nó và sự tồn tại hay hiệu lực của thoả thuận trọng tài..." 

2. Cơ sở xác định phạm vi trọng tài

Phạm vi Trọng tài trong Luật Trọng tài  Hồng Kông và Quy tắc Trọng tài của UNCITRAL quy định rằng trọng tài sẽ chỉ giải quyết tranh chấp  phát sinh ngoài hợp đồng, tức là  tranh chấp ngoài hợp đồng, trọng tài sẽ không được ủy quyền theo quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 1 của UNCITRAL Quy tắc Trọng tài và Quy tắc Trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông (HKIAC) 1985 cũng chỉ áp dụng cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng: 

Nếu các bên trong  hợp đồng đã thỏa thuận bằng văn bản rằng tranh chấp  liên quan đến hợp đồng đó sẽ được giải quyết bằng trọng tài theo Quy tắc trọng tài UNCITRAL thì tranh chấp đó sẽ được giải quyết theo Quy tắc trọng tài UNCITRAL. trong khi đó, phần lớn luật pháp quốc gia cũng như luật pháp  và thông lệ trọng tài quốc tế cho phép trọng tài giải quyết  tranh chấp, dù có hợp đồng hay không

Luật Trọng tài Vương quốc Anh, Đức, Canada, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Luật mẫu UNCITRAL, Quy tắc Trọng tài ICC, LCIA, SIAC, JCAA, v.v.  cho phép trọng tài giải quyết  tranh chấp, dù có hợp đồng hay không. Khoản 1, mục 6 của Đạo luật Trọng tài Vương quốc Anh 1996 quy định: 

“thỏa thuận trọng tài có nghĩa là một thỏa thuận để đệ trình lên trọng tài các tranh chấp hiện tại hoặc  tương lai, cho dù có hợp đồng hay không”. 

Hoặc Khoản 1 Điều 1029 Đạo luật Trọng tài Đức 1998 quy định: 

Thỏa thuận trọng tài là sự thỏa thuận của các bên về việc đưa ra trọng tài giải quyết toàn bộ hoặc một phần tranh chấp đã phát sinh hoặc có khả năng phát sinh giữa các bên trong trường hợp có quan hệ pháp luật xác định, có thể là quan hệ hợp đồng hoặc không phải là quan hệ hợp đồng”. 

Định nghĩa “năng lực tùy ý” cũng buộc chúng ta phải trả lời câu hỏi: trọng tài có đủ thẩm quyền giải quyết mọi tranh chấp trong các lĩnh vực khác nhau hay không? Trên thực tế, ngày nay pháp luật của hầu hết  các nước đều mở rộng thẩm quyền của trọng tài, theo đó cho phép trọng tài có khả năng giải quyết không chỉ các tranh chấp thương mại mà cả các tranh chấp  dân sự và lao động khác.

Điều 1 Luật Trọng tài Brazil năm 1996 quy định: "Bất kỳ ai có khả năng ký kết thỏa thuận đều có thể đệ trình lên trọng tài để giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền  tài sản mà anh ta có quyền quyết định. Điều tương tự cũng được tìm thấy trong Điều 2 của Luật Trọng tài Brazil năm 1996". Luật Trọng tài Trung Quốc năm 1994, Khoản 1 Điều 1030 Luật Trọng tài Đức năm 1998 và Điều 1 Luật Trọng tài. Tuy nhiên, việc mở rộng thẩm quyền của trọng tài cũng có giới hạn của nó, khi Nhà nước phải can thiệp trực tiếp vào các tranh chấp “không chỉ gắn với lợi ích cá nhân của các bên mà còn gắn với lợi ích của bên thứ ba hoặc lợi ích chung”. Ví dụ, các tranh chấp liên quan đến hôn nhân, thừa kế, một số tranh chấp về sở hữu trí tuệ, cạnh tranh thương mại không lành mạnh, phá sản, tranh chấp phát sinh từ quan hệ hành chính, v.v. phải do tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Ví dụ, Điều 3 Luật Trọng tài năm 1994 của Trung Quốc quy định: 

Tranh chấp về những vấn đề sau đây không được đưa ra trọng tài: 1) Tranh chấp về kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ, cấp dưỡng, thừa kế; 2) Tranh chấp do pháp luật điều chỉnh do cơ quan hành chính giải quyết”. 

Hoặc Khoản 2 Điều 1030 Đạo luật Trọng tài Đức 1998 quy định: 

"Một thỏa thuận trọng tài liên quan đến các tranh chấp liên quan đến sự tồn tại của hợp đồng cho thuê chỗ ở tại Đức là vô hiệu”

3. Xử lý xung đột thẩm quyền xét xử giữa Trọng tài và Toà án 

Khi có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp phát sinh được liệt kê ở trên thì Tòa án yêu cầu một hoặc các bên cho biết tranh chấp đó các bên có thoả thuận trọng tài hay không. Tòa án phải kiểm tra, xem xét các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện để xác định vụ tranh chấp đó có thuộc trường hợp có thoả thuận trọng tài nhưng Tòa án vẫn có thể có thẩm quyền hay không 

Tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau: 

- Trường hợp tranh chấp không có thoả thuận trọng tài hoặc đã có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định, phán quyết có hiệu lực pháp luật của Trọng tài xác định vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài thì Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.  Trường hợp tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp bị vô hiệu thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện. 

- Trường hợp sau khi thụ lý vụ án Tòa án mới phát hiện vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp bị vô hiệu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện. 

 - Trường hợp đã có yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp và Hội đồng trọng tài đang giải quyết vụ tranh chấp thì dù Tòa án nhận thấy tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài hoặc tuy đã có thoả thuận trọng tài nhưng bị vô hiệu mà người khởi kiện có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp Tòa án đã thụ lý thì ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trừ trường hợp Tòa án thụ lý vụ tranh chấp trước khi có yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp. Sau khi có  phán quyết hoặc quyết định của Hội đồng trọng tài mà nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thì Toà án xem xét thụ lý và giải quyết theo thủ tục  dân sự.

 

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (1152 lượt)

    Để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Email không được để trống

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo