1. Bộ luật Hồng Đức là gì?
Luật Hồng Đức là tên gọi chung của Bộ Quốc triều hình luật hay Hình luật triều Lê, bộ luật chính thức của nước Đại Việt thời Lê sơ, hiện còn được lưu giữ đầy đủ. Vì luật của các triều đại phong kiến Việt Nam được gọi là Quốc triều hình luật nên ở đây chúng tôi lấy tên Luật Hồng Đức làm tên bài, tuy không phải là tên chính thức.
Có thể coi đây là một bộ luật tổng hợp bao gồm nhiều quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như: luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân và gia đình, luật hành chính, v.v.

Bộ luật hồng đức hình sự
2. Lịch sử hình thành và phát triển:
Văn bản mật mã này là một trong những thư tịch cổ nhất hiện còn được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội). Có hai tấm in ở đây, đều mang tên Hình luật Quốc triều. Ngoài ra còn có một bộ sách chép tay gọi là Hình luật triều Lê, nhưng nội dung của nó là sao chép Hình luật triều đại (thời Lê sau) và được chép lại sau này.
Trong đó bản Quốc triều hình luật hình sự mang ký hiệu A.341 là bản văn khắc đầy đủ nhất và được coi là văn bản có giá trị nhất. Mã sách này gồm 6 cuốn, được in và khắc trên giấy, tổng cộng có 129 tờ được nhóm lại trong một cuốn duy nhất. Cuốn sách không có tên tác giả, không ghi ngày biên soạn hay in ấn, và không có lời tựa hay các chú thích khác. Bìa gốc của cuốn sách đã bị mất, được thay thế bằng bìa bốn chữ Hán, Hình luật Quốc triều, bằng bút lông. Nội dung của bộ luật này đã được Phan Huy Chú ghi lại trong phần Hình luật của Lịch triều hiến chương loại chí, nhưng thiếu 143 điều trong tổng số 722 điều trong sách này.
Trong số 722 điều của luật hình sự quốc gia, 200 điều được phỏng theo từ thời nhà Đường và 17 điều được phỏng theo từ thời nhà Minh. Hơn nữa, có 178 điều về cùng một chủ đề nhưng Quốc triều hình luật lại đưa ra cách giải quyết khác với các triều đại Trung Quốc. Cụ thể, có 328 điều khoản không tương ứng với bất kỳ luật nào của Trung Quốc.
Từ đầu thế kỷ 20, Quốc sử hình sự đã được dịch sang tiếng Pháp. Mãi đến năm 1956 mới được dịch ra quốc ngữ (bản dịch của Đại học Luật khoa Sài Gòn do Lương Thân Cao Nại Quang phiên âm và dịch, Nguyễn Sĩ Giác hiệu đính, Vũ Văn Mẫu biên soạn, Nhà in Nguyễn Văn Của hiệu đính, Sài Gòn, 1956). Gần đây, Viện Sử học Việt Nam dịch lại cho chính xác hơn. (NXB Pháp lý, Hà Nội - 1991). Một số học giả người Pháp khi xem xét, nghiên cứu cho rằng gọi là Lê hình luật và đó là Lê hình luật in năm 1777 (Cảnh Hưng thứ 38) mà Phan Huy Chú đã ghi trong Lịch triều hiến chương sau khi nghiên cứu Thiên hình luật chí trong sách này cũng như Quốc triều hình luật bản thảo. Theo Vũ Văn Mẫu, Quốc triều hình luật được ban hành lần đầu vào khoảng thời Hồng Đức (1470-1497) và có lẽ là vào cuối thời đó. Ý kiến của Vũ Văn Mẫu chủ yếu dựa trên những nhận xét của Phan Huy Chú về việc ban hành Quốc triều Lê, Hình luật Hồng Đức và Vua Gia Long của Nhà Nguyễn đối với Hoàng Việt Hình luật, trong đó ông đánh giá cao bộ luật cổ này và gọi nó là Bộ luật Hồng Đức.
Theo Viện Sử học Việt Nam, bộ luật hình sự của Quốc triều được soạn thảo từ thời Lê Thái Tổ, sau đó được tiếp tục hoàn chỉnh dưới các triều đại Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông. Đến thời Lê Thánh Tông, bộ mã hoàn chỉnh. Các ý kiến này chủ yếu dựa trên sử liệu Đại Việt sử ký có ghi rằng năm Thái Hòa thứ 7 (1449), vua Lê Nhân Tông đã bổ sung 14 điều vào bộ luật hình sự. Hơn nữa, qua các sử sách khác và qua các bia ký (có sự khác biệt về nội dung văn bản), các bổ sung, tên các đơn vị hành chính trong bộ luật..., có thể thấy bộ luật này đã được soạn thảo, bổ sung, sửa đổi qua nhiều đời vua Lê.
3. Bố cục Bộ luật Hồng Đức:
Trong quá trình xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, nhà Lê lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng, lãnh đạo việc biên soạn và ban hành luật pháp nhằm thể chế hóa một nhà nước phong kiến Đại Việt, có truyền thống nhân nghĩa, yêu nước, thương nòi, lấy dân làm gốc, quan tâm đến đời sống của muôn dân. Đây là những yếu tố cơ bản chi phối việc soạn thảo văn bản pháp luật và được thể hiện rất rõ nét trong các chương của bộ luật hình sự thời Lê hay còn gọi là Luật Hồng Đức. Quốc triều hình luật A.341 gồm 13 chương, được liệt kê thành 6 quyển (5 quyển 2 chương/cuốn và 1 quyển 3 chương), gồm 722 điều. Mặt khác, trước khi đi vào các chương, điều, Quốc triều hình luật còn có các ô lưới quy định về các hạng tang và tang, kích thước và hình dáng của các công cụ (roi, gậy, còng tay, dây sắt,…).
Quy định cụ thể như sau:
- Chương Điều chính: gồm 49 điều quy định những vấn đề cơ bản chi phối nội dung của các chương, điều khác (quy định về thập ác, ngũ sự, bát âm, tội bạc,…)
- Chương cấm bảo: gồm 47 điều nói về việc bảo vệ cung cấm, kinh thành và tội ác của cấm địa.
- Chương Hình luật: gồm 144 điều quy định các hình phạt về tội của quan lại và tội về chức vụ.
- Chương quân chính: 43 điều quy định việc trừng trị những việc làm sai trái của tướng, binh và tội quân sự.
- Chương Hôn nhân: 58 điều quy định về hộ tịch, hộ tịch, hôn nhân-gia đình và tội phạm trong các lĩnh vực này.
- Chương Tài sản: 59 điều, ban đầu 32 điều, sau bổ sung 27 điều (14 điều về điền sản mới bổ sung, 4 điều về hương luật, 9 điều về hương luật bổ sung) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương và tội phạm trong lĩnh vực này.
- Chương về lừa đảo: 10 điều về tội phạm tình dục. 8. Chương Trộm: 54 điều quy định các tội trộm cắp, giết người và một số tội chính trị như phản vua.
- Chương Đấu tụng: 50 điều về các nhóm tội đánh nhau (đánh nhau) và tội lăng mạ, lăng mạ v.v.
- Chương Trâu: 38 điều quy định về tội giả mạo, gian dối. 11. Chương điều luật: 92 điều quy định các tội phạm không thuộc các nhóm tội phạm trên.
- Vụ tử hình: 13 điều quy định việc truy bắt tội phạm và tội phạm trong lĩnh vực này.
- Chương Thi hành án trong trại giam: gồm 65 điều quy định về việc xét xử, giam giữ người phạm tội và người sai phạm trong lĩnh vực này.
Hai chương cuối này có một số điều khoản về thủ tục, nhưng chúng chưa đầy đủ.
4. Nội dung của Vụ Pháp luật Hình sự Nhà nước:
Bộ luật Hồng Đức còn lưu giữ đến nay gồm 13 chương, 722 điều, nội dung cơ bản của bộ luật như sau:
– Giữ nước trong thế phòng thủ chống ngoại xâm;
- Giữ nghiêm kỷ cương, phép nước;
- Khởi động lại nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng ổn định kinh tế - xã hội;
– Phát triển trao đổi để khuyến khích thương mại lành mạnh;
– Bảo vệ quyền tài sản của mọi người, bảo vệ quyền tài sản của mọi người khỏi nát quýt và sâu bọ;
- Khuyến khích giáo dục thuần phong mỹ tục;
– Vận động và bảo vệ quyền của phụ nữ;
- Chính sách hình phạt nghiêm khắc nhưng khoan hồng.
a) Đổi mới tổ chức bộ máy chính quyền
Vua Lê Thánh Tông đã từng bước tiến hành những cải cách sâu sắc về hành chính, quân sự và pháp luật nhằm khôi phục hoạt động của bộ máy nhà nước ngày càng hiệu quả hơn, từng bước đưa đất nước vào thế ổn định, tạo đà phát triển vững chắc đi lên. Về mặt hành chính, nhà vua kiên quyết và kiên trì đổi mới bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương.
Thời Trần chỉ có 4 bộ Hình, Lại, Bình, Hộ, thời vua Lê Lợi cũng chỉ có 3 bộ Lại, Lễ, Đàn (tức Hộ bộ). Nhà Lê được tổ chức thành sáu đạo:
Bộ Lai: Giám sát việc tuyển dụng, đề bạt, thăng quan tiến chức;
Nghi lễ: giám sát việc bố trí và tiến hành các nghi lễ, yến tiệc, học hành thi cử, đúc ấn, canh giữ đình, chùa, miếu;
Hộ bộ: coi sóc đất đai, tài chính, hộ khẩu, thuế kho bạc, ngũ cốc, lương bổng và phụ cấp của quan lại và binh lính;
Bộ binh: trông nom việc lớn về quân sự, bố trí biên phòng, tổ chức trấn giữ các nơi nguy hiểm, ứng phó với các trường hợp khẩn cấp;
Bộ Tư pháp: giám sát việc thực hiện các luật, pháp lệnh và mệnh lệnh hành pháp, rà soát các nhà tù, nhà đày và xét xử;
Quan chức: Giám sát việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện, pháo đài và đốc công công nhân.
b) Giữ nước trong thế phòng thủ chống ngoại xâm
Trong Bộ luật Hồng Đức, nhiều điều quy định rõ trách nhiệm bảo vệ biên giới, vùng biển và phong tục. Các cuộc tấn công vào an ninh và toàn vẹn lãnh thổ đều bị trừng phạt nghiêm khắc. Trong Bộ luật Hồng Đức có nhiều quy định rõ ràng về hình phạt đối với những hành vi này. Ví dụ: “Người nào vượt cửa khẩu mà đi nước khác thì bị chém” (điều 71) hoặc “Người nào bán đất vùng biên giới cho người nước ngoài thì bị chém” (điều 74).
Vua Lê Thánh Tông còn ban hành các chiếu chỉ, sắc lệnh quy định việc kê khai, điều tra trong cả nước, đặt ra luật lệ về chế độ nghĩa vụ quân sự mà ngày nay ta gọi là nghĩa vụ quân sự; Việc thiết lập chế độ quân hàm cũng như xây dựng quân đội chính quy thiện chiến khiến đất nước luôn trong tình trạng có đầy đủ sức mạnh để chống lại mọi âm mưu xâm lược.
c) Giữ nghiêm kỷ cương phép nước
Người xưa nói: “Muôn hình vạn trạng bắt đầu từ một sự rối loạn kỷ luật”. Kỷ luật nghiêm minh là đề phòng kỷ luật hàng ngày, những việc tưởng như nhỏ nhặt. Một kỷ cương nhỏ nhất cũng không giữ được, thì làm sao giữ được phép tắc của đất nước?”
Khi ban chỉ dụ: “Tước bộ quan lại”, nhà vua chỉ rõ: “Từ nay con cháu ta phải biết rằng chế độ này sinh ra là do ác ý. Một khi Pháp đã được ấn định, nó phải được tôn trọng và tuân theo. Đừng ỷ vào trí thông minh, bàn trước việc triều, mà thay luật vung luật nhốt ngươi vào đạo không gốc.
Kẻ làm phò cũng nên trọng nghĩa, suốt đời cố gắng giúp vua mình, làm việc công trước, như vậy mãi tránh tội. Dám lái phép trước, van xin quan, xin địa vị, hắn là tên đầy tớ phản nghịch luật đất bị giết giữa chợ không thương tiếc, người nhà hắn đều bị đưa ra biên ải để hiểu tội làm nô lệ trên không, để muôn đời biết ý tưởng phát minh ra lập pháp sẽ mãi ở đó.
Vua Lê Thánh Tông đặc biệt coi trọng trách nhiệm của các quan. Ông bảo: “Các quan là bọn thần kinh của làng, tục là thế. Cho nên phải lấy chính nghĩa, liêm, chính, từ thiện mà dạy dỗ dân chúng giữ lấy chữ nhân, chữ nhân, từ bỏ mọi điều gian dối, để dân được an cư, lạc nghiệp, phú quý dư dả, còn mang tiếng là tư sản của làng.
d) Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng ổn định kinh tế - xã hội
Dưới chế độ phong kiến, nông nghiệp là nền tảng của xã hội. Đúng là vị vua anh minh, ngay từ ngày đầu tiên trị vì, đã ưu tiên phát triển nông nghiệp.
Trước hết, trong công cuộc cải cách hành chính, nhà vua đã thành lập các cơ quan chuyên trách chấn hưng nông nghiệp như thành lập thêm 4 cơ quan mới: Bộ Lễ, chuyên lo việc khuyến nông trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa; Khoa thực hành chuyên trồng rau; Sở Đồn điền chuyên chăn nuôi gia súc, gia cầm, Sở Đồn điền chuyên về ruộng đất. Ông cũng bổ nhiệm thêm một viên quản lý: Quản Hà Đê để lo việc đắp đê, hộ đê và phòng chống lũ lụt.
Vua Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm đến việc đắp đập, sửa đê để chống lụt. Trong Bộ luật Hồng Đức có hai quy định chi tiết về việc này: “Việc tu bổ đê điều của các sông lớn bắt đầu từ ngày 10 tháng giêng, các thị lang ở trong đường đê phải đến nhận đê, thời hạn trong vòng hai tháng kể từ ngày 10 tháng 3. Đường đắp mới phải thi công trong vòng 3 tháng. Các quan phải thường xuyên đến lấy hàng, bọn đê điều phải dồn ép hàng ngày. Nếu đến hạn mà không làm cho xong, quan sẽ phạt vạ, quan sẽ bị nhạo báng. Bộ đội, dân quân không đến làm việc đúng giờ, không chăm chỉ sửa chữa đê.
d) Phát triển thương mại để khuyến khích thương mại lành mạnh
Để giao lưu thuận lợi thì tất nhiên phải có địa điểm kinh doanh. Vua Lê Thánh Tông từng nói với các quan rằng: “Trong dân gian, hễ có người là có chợ để lưu thông hàng hóa, mở đường buôn bán cho dân. Các thành phố không có thị trường có thể tạo ra một thị trường mới.
Ngày họp chợ mới không được trùng hoặc trước ngày họp chợ cũ để tránh tranh giành khách hàng của nhau. Có thể đến thời Lê Thánh Tông chợ đã phát triển nhiều. Ở các đô thị lớn hoặc một số đô thị gần nhau thường có một khu chợ chung họp hàng ngày. Trung tâm thương mại nông thôn còn tồn tại cho đến ngày nay là khu chợ thường mở vào những ngày nhất định trong tháng. Chợ là nơi mua bán tấp nập nhất, với nhiều mặt hàng nhất.
Nhờ quan tâm phát triển thương nghiệp nên nông nghiệp phát triển mạnh. Các nghề thủ công như dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, mộc, điêu khắc, đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Thăng Long có 36 phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại và phát triển cho đến ngày nay, với lịch sử hơn 500 năm - tức là từ thời vua Lê Thánh Tông. Phường Yên Thái làm giấy, phường Nghi Tàm dệt lụa, phường Hà Tân nung vôi, phường Hàng Đào nhuộm hạt điều, phường Ngũ Xã đúc đồng và nhiều phường nữa, khi đã có tên Việt Nam, ai cũng tự hào về di sản của tổ tiên để lại.
Dưới triều vua Lê Thánh Tông, hàng hóa từ kinh đô Thăng Long đến các trung tâm buôn bán trong nước luôn tấp nập ngược xuôi như dòng suối chảy ngày đêm không ngừng.
e) Bảo vệ quyền sở hữu của công dân, nghiêm trị những hành vi ức hiếp, bóc lột dân lành của quan lại.
Vua Lê Thánh Tông trong lương tâm và hành động đều coi dân là quý. Ông rất quan tâm đến hạnh phúc của mọi người. Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là cải cách pháp luật, bảo vệ quyền sở hữu đất đai, là quyền cơ bản để thực hiện các quyền tiếp theo nhằm bảo đảm quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của nông dân.
Trong Bộ luật Hồng Đức đã có những điều luật quy định việc trừng phạt những hành vi vi phạm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và định đoạt ruộng đất của người nông dân như: Tranh giành đất đai trái với chúc thư (đ.354), nhận bừa ruộng đất của người khác (đ.344), hà hiếp, bức hại để mua ruộng đất của người khác (đ.355), tá điền cấy rẽ mà trở mặt ăn cướp (đ.356), xâm lấn bờ cõi ruộng đất, nhổ bỏ giới mốc (đ.357), chặt cây trong khu mộ địa của người khác (đ.358), cấy trộm vào phần đất, phần mộ của người khác, chôn cất trộm vào ruộng của người khác (đ.359), ruộng đất đang tranh chấp mà đánh người để gặt lấy lúa má (đ.360), cấy rẽ ruộng công hay tư, không báo cho chủ mà tự tiện đến gặt (đ.361), các nhà quyền quý chiếm đoạt ruộng đất ao đầm của nhân dân, từ một mẫu trở lên thì xử tội phạt, từ năm mẫu trở lên thì xử tội biếm. Quan tam phẩm trở xuống thì xử tăng thêm hai bậc và phải bồi thường như luật định (đ.370).
Bộ luật Hồng Đức còn có cả những điều quy định nhằm bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất cho trẻ em và người già như: “Chồng chết con còn nhỏ, vợ tái giá mà bán điền sản của con (Điều 377), cha mẹ còn sống mà bán trộm điền sản (đ.378), người trong họ tự tiện bán ruộng của đứa cháu mồ côi (Điều 379) đều bị xử phạt”.
f) Bênh vực và bảo vệ quyền lợi phụ nữ
Triều Lê là một triều đại trọng Nho giáo, tức là những quy định khắt khe của Nho giáo với người phụ nữ như “tam tòng tứ đức” được coi trọng. Tuy nhiên trong bộ luật đương thời của triều đình cũng có một số đIũu luật được coi là cách tân bảo vệ quyền lợi người phụ nữ. Một số điều luật quy định: “Chồng bỏ vợ năm tháng không động đậy (người vợ trình diện với quan địa phương và quan xã làm chứng) thì mất vợ. Nếu người vợ có con, thời hạn là một năm. Vì quan đi xa không tuân theo luật này. Nếu bỏ vợ mà ngăn cản người khác lấy vợ mình là tội trớ trêu (điều 308). Cùng với mục đích bênh vực người phụ nữ, trong Bộ luật Hồng Đức còn có quy định: “Nếu con gái hứa gả chồng mà chưa lấy chồng, nếu con trai có tật hoặc phạm tội, phá của, thì con gái được gọi quan và nộp lại lễ vật. Nếu cô gái có khuyết tật hoặc phạm tội thì không phải nộp lại lễ vật, nếu vi phạm thì bị phạt 80 trượng (Điều 322)” hoặc: “Kẻ cường quyền lấy gái ngoại tộc thì bị xử tội dâm tặc (Điều 338)”.
g) Khuyến khích giáo dục thuần phong mỹ tục
Trong Bộ luật Hồng Đức cũng có những điều được quy định nhằm mục đích bảo vệ thuần phong mỹ tục.
Ví dụ: Để khuyến khích tình đồng loại, đồng bào, đồng bào, trong Bộ luật Hồng Đức có những điều khoản như: “Làng làng, khu phố nên giúp đỡ kẻ ốm đau không người giúp đỡ, chôn cất kẻ chết dọc đường (đ.294)”; “Phải săn sóc kẻ tàn tật, bần hàn (đ.295), bắt đứa trẻ lạc mà báo (đ. 604)”, có người chết ngoài đường, dân phải đem chôn (đ.607).
h) Chính sách hình phạt nghiêm khắc nhưng khoan dung
Tính nghiêm minh của chính sách hình sự trong Bộ luật Hồng Đức trước hết thể hiện ở chỗ các tội bị coi là tội nghiêm trọng. Cái gọi là “tội ác” bao gồm 10 hạng mục: “Tội ác hàng thập kỷ” bao gồm:
Đầu tiên. Tội âm mưu là tội phá hoại an ninh quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Tội phản vua là tội xâm phạm tính mạng và tài sản của vua.
Âm mưu chống đối là tội gián điệp hoặc thông đồng với nước ngoài chống lại tổ quốc. 4. Tội ác là tội giết ông bà, cha mẹ, cậu, dì, anh, chị, em...
Tội vô đạo đức là tội phạm có tính chất đặc biệt man rợ, dã man như giết một lúc 3 người trở lên, giết người rồi chặt xác nạn nhân thành nhiều mảnh, dùng thuốc độc giết người.
Đại bất kính là tội ăn cắp đồ thờ tự trong lăng vua, làm giả ấn tín của vua, cẩu thả trong việc lo thuốc men, ăn uống và các nhu cầu khác của vua.
Không vâng lời là tội gièm pha hoặc dùng lời lẽ chửi bới, bỏ đói, bỏ lạnh ông bà, cha mẹ hoặc khi ông bà, cha mẹ đang có tang không khóc mà tự do chơi đùa.
Bất động giết người, bán tang từ 3 tháng trở lên, đánh đập, tố cáo chồng.
Phi nghĩa giết quan trong huyện, học trò giết giáo sư, chồng chết không tiễn đưa ai (để tang - chú thích của chủ biên) mà vui chơi, ăn mặc như thường.
Nổi loạn là tội loạn luân.
Như vậy, theo chính sách hình sự của vua Lê Thánh Tông, được ghi trong Bộ luật Hồng Đức, ngoài các tội xâm hại đến an ninh quốc gia, xâm hại đến lợi ích của nhà vua, thì các tội xâm phạm đến thuần phong mỹ tục như: vô đạo, bất kính, bất hiếu, bất nghĩa, loạn luân, cũng bị coi là tội ác, thường bị trừng phạt với hình thức cao nhất là tử hình.
5. Giá trị của Bộ Nhà nước pháp luật hình sự:
Cũng như các bộ luật phong kiến khác, luật Hồng Đức thể hiện rõ tính chất giai cấp. Mục đích chính của nó là bảo vệ vương quyền, địa vị và lợi ích của giai cấp phong kiến, củng cố trật tự xã hội và gia đình phụ quyền phong kiến. Đó là sự hệ thống hóa tư tưởng chính trị và đạo đức của Nho giáo. Tuy nhiên, không thể phủ nhận các tính năng và tiến bộ độc đáo của nó.
Điểm tiến bộ của bộ luật Hồng Đức là đã thực hiện một bước cải thiện khá triệt để địa vị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Vai trò của phụ nữ đã được nhấn mạnh hơn nhiều so với các luật hiện đại trong khu vực. Nó cho thấy người phụ nữ có quyền quản lý tài sản của gia đình (khi người chồng qua đời) và cô ấy có quyền thừa kế giống như nam giới.
Điểm thứ hai là mức án dành cho phạm nhân nữ bao giờ cũng nhẹ hơn so với phạm nhân nam. Ví dụ: Điều 1 quy định chỉ xử phạt nam giới: “Từ 60 quan đến 100 quan, chia làm 5 bậc: 60 quan, 70 quan, 80 quan, 90 quan, 100 quan, tuỳ theo tội mà thêm bớt. Thử nghiệm này có thể được kết hợp với một tội hình sự, trọng tội, châm biếm hoặc phiên tòa chỉ dành cho nam giới. Điều 680: “Phụ nữ phải bị xử tử hình trở xuống, nếu có thai thì phải sau 100 ngày mới sinh con mới bị xử tử. Nếu họ chưa được sinh ra, họ sẽ bị quan ngục xử tử. Nhà tù bị thẻ xiên. Tuy ông đã ra đời, nhưng chưa đủ thời gian điều hành một trăm ngày, quan ngục và trại giam bị xử tội nhẹ hơn hai giai đoạn. Nếu 100 ngày trôi qua mà không có hành quyết, nhà tù hoặc nhà tù sẽ bị buộc tội mỉa mai hoặc trừng phạt."
Điểm thứ ba, thể hiện chính sách trọng nông của nhà Lê. Bộ luật nghiêm trị các tội như phá đê (điều 596), chặt phá cây cối, lúa của người khác (điều 601), tùy tiện giết trâu, ngựa (điều 580) v.v. Chẳng hạn, Điều 17 Bộ luật Hình sự Quốc gia quy định: "Trường hợp người phạm tội chưa đủ tuổi tàn tật, thì mới phát hiện ra người tàn tật, sau đó mới truy tố theo Bộ luật Người già và Người tàn tật. Khi ở nơi có điều bị tổn thương, người già và người tàn tật cũng vậy. Khi còn nhỏ, người đó đã phạm tội khi còn nhỏ. Đối với người phạm tội chưa bị phát hiện và thú tội trước (trừ tội nhẹ hoặc tội giết người) Điều 18 và Điều 19: “Ai lấy trộm của cải nhỏ của người, sau lại đi thú tội với người bị mất tài sản, cũng bị coi là quan thú”. Các điều 21, 22, 23, 24 của Quốc triều hình luật quy định về tội chuộc tội bằng tiền (trừ hình phạt đánh đòn vì cho rằng roi vọt có tính chất giáo huấn, cảnh cáo nên không bắt buộc phải chuộc tội).
Điểm thứ năm, Luật Hồng Đức tiếp thu có chọn lọc tư tưởng Nho giáo, đồng thời phát huy thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc. Ví dụ: Điều 40: “Người dân vùng cao (miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số) cùng nhau phạm tội, thì xét xử theo phong tục nước này. Những kẻ phạm tội với cư dân miền trung (miền trung và đồng bằng) sẽ bị pháp luật xét xử. Có thể nói, đó là một trong những đạo luật thể hiện rõ nét nhất tính sáng tạo của nhà lập pháp. Điểm thú vị của quy định này là luật dù có hoàn hảo đến đâu cũng không thể phủ nhận hay thay thế hoàn toàn vai trò của phong tục tập quán đã tồn tại từ rất lâu trước khi có luật.
Nội dung bài viết:
Bình luận