Luật quốc tế được hiểu chính là một hệ thống của các nguyên tắc và quy phạm pháp luật và nó được tạo dựng dựa trên sự thỏa thuận giữa các quốc gia và các chủ thể khác nhau trên phạm vi toàn thế giới. Luật quốc tế đã được thành lập từ lâu và nó được thành lập dựa trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng giữa các nước nhằm mục đích để giải quyết những vấn đề phức tạp mà các vấn đề này có thể phát sinh giữa các quốc gia; đảm bảo được an ninh thế giới trong đa số các hoạt động ảnh và lĩnh vực của đời sống quốc tế.
Sự hình thành và phát triển của bộ luật quốc tế đã được tạo ra khi những mối quan hệ giữa các quốc gia đã được mở rộng trên mọi lĩnh vực đời sống và nó đã được bắt đầu từ các lĩnh vực khác nhau cụ thể như kinh tế, chính trị và giáo dục, y tế,… Và, nó đã vượt xa ra khỏi phạm vi khu vực và sự phát triển của các quốc gia đó.
Các mối quan hệ đều có tính chất liên khu vực hoặc cộng đồng quốc tế, ta nhận thấy rằng, những quan hệ này sẽ phải luôn luôn được điều chỉnh làm sao để nó có thể phù hợp nhất với quy phạm pháp luật tương ứng và các quy phạm pháp luật của mỗi quốc gia. Luật quốc tế trong giai đoạn hiện nay, hay còn được gọi là công pháp quốc tế được tạo ra nhằm mục đích để có thể đảm bảo việc thi hành những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc là tập thể cho các chính phủ mà luật quốc tế đảm bảo quyền lợi.
Ta thấy được rằng, ngành luật quốc tế ra đời cũng tương ứng với việc các chủ thể ở trên thế giới và luôn luôn đảm bảo rằng hành vi của mình được thi hành để nhằm mục đích có thể đảm bảo cho các quyền lợi chung của chính mình và của các chủ thể khác. Cũng chính bởi vì vậy thì các quốc gia cần phải phải có những đối tượng hiểu biết về luật và luật quốc tế để có thể trợ giúp cho những hoạt động về quy phạm pháp luật trong nước và cả ngoài nước, làm bảo những hành động đó được thực thi theo đúng khuôn khổ của pháp lý.
Ngành luật quốc tế ra đời nhằm mục đích có thể tạo điều kiện và cơ hội việc làm cho những sinh viên.Các sinh viên cũng sẽ cần đáp ứng kiến thức từ cơ bản cho tới chuyên sâu của các môn học như là công pháp quốc tế, Luật Kinh tế, Luật tổ chức quốc tế hoặc là Luật thương mại quốc tế.
2. Chủ thể của Luật Quốc tế là gì?
Dưới góc độ lý luận khoa học pháp lý, để xác định được đối tượng của Luật Quốc tế cần phải dựa vào các dấu hiệu cơ bản sau: Có sự tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế do Luật Quốc tế điều chỉnh; Có ý chí độc lập trong sinh hoạt quốc tế; Có đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Quốc tế; Có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà chủ thể gây ra.
Cùng với quá trình phát triển khách quan của xã hội thì sự tồn tại và phát triển của Luật Quốc tế cũng đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, do đó trong từng giai đoạn lịch sử mà phạm vi điều chỉnh của Luật Quốc tế có sự thay đổi dẫn tới chủ thể của Luật Quốc tế cũng có sự khác nhau nhất định. Trong giai đoạn chiếm hữu nô lệ thì chủ thể của Luật Quốc tế là các quốc gia chủ nô, các liên đoàn chính trị tôn giáo của các quốc gia thành thị. Trong thời kỳ phong kiến, chủ thể Luật Quốc tế là các quốc gia phong kiến, các nhà thờ thiên chúa giáo. Đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa thì chủ thể của Luật Quốc tế là các quốc gia có chủ quyền và các tổ chức quốc tế ….
Từ những cơ sở trên, chúng ta có thể định nghĩa tổng quát khái niệm chủ thể của Luật Quốc tế như sau: Chủ thể của Luật Quốc tế là những thực thể đang tham gia hoặc có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ quốc tế và khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ thể thực hiện.
3. Đặc điểm của chủ thể pháp luật quốc tế:
Xét về vị trí, tính chất, vai trò chức năng và bản chất pháp lý… thì các chủ thể của Luật Quốc tế có sự khác nhau, tuy nhiên chúng bao giờ cũng có chung các đặc điểm cơ bản và đặc trưng sau:
Là thực thể đang tham gia hoặc có khả năng tham gia quan hệ pháp Luật Quốc tế.
Độc lập về ý chí, không chịu sự tác động của các chủ thể khác.
Được hưởng quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế.
Có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà chủ thể đó gây ra.
Không có một chủ thể nào có quyền tài phán chủ thể của Luật Quốc tế.
4. Phân loại chủ thể luật quốc tế
Hiện nay, trong quan hệ pháp Luật Quốc tế hiện đại thì chủ thể của Luật Quốc tế bao gồm:
Các quốc gia, đây là chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật Quốc tế.
Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, đây là chủ thể tiềm tàng của Luật Quốc tế.
Các tổ chức quốc tế liên chính phủ, đây là chủ thể phái sinh của Luật Quốc tế, được hình thành bởi sự hợp tác của các quốc gia trên nhiều lĩnh vực hướng đến lợi ích của các quốc gia và lợi ích chung của cộng đồng.
Các chủ thể đặc biệt khác.
Tuy nhiên trong trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, vai trò của các cá nhân, tập đoàn, công ty đa quốc gia, các hiệp hội phi chính phủ trong quan hệ quốc tế ngày càng tăng cho nên việc thừa nhận các chủ thể có sự tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế ở một số lĩnh vực nhất định, do đó có quan điểm cho rằng đây cũng là chủ thể của Luật Quốc tế.
5. So sánh các chủ thể của Luật quốc tế
– Các quốc gia, đây là chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật Quốc tế: Theo quy định tại Điều 1 của Công ước Montendevio 1933 về quyền và nghĩa vụ của quốc gia thì quốc gia bao gồm các yếu tố cơ bản sau: Dân cư ổn định; lãnh thổ được xác định; chính phủ; khả năng tham gia vào các quan hệ với các chủ thể quốc tế khác.
+ Về phương diện pháp lý quốc tế, lãnh thổ xác định được hiểu là quốc gia phải có đường biên giới để phân định lãnh thổ, biên giới với các quốc gia khác. Hay nói cách khác, quốc gia phải có lãnh thổ được xác định và được thể hiện trên bản đồ địa lý hành chính thế giới.
+ Một quốc gia có dân cư ổn định có nghĩa là đại bộ phận dân cư sinh sống, cư trú ổn định lâu dài trên lãnh thổ quốc gia là công dân mang quốc tịch của quốc gia, đồng thời họ có đầy các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân của quốc gia đó.
+ Ngoài các yếu tố cấu thành quốc gia về lãnh thổ, dân cư và Chính phủ, một quốc gia chỉ có tư cách chủ thể của luật quốc tế khi quốc gia đó là một quốc gia có chủ quyền. Trong các quan hệ quốc tế thời hiện đại, chủ quyền quốc gia được coi là quyền tối cao của các quốc gia. Chủ quyền được thể hiện trong các vấn đề đối nội và đối ngoại. Đối nội: quốc gia các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và quyền quyết định mọi vấn đề chính trị và các quốc gia khác không có quyền can thiệp. Trong đối ngoại hoàn toàn độc lập không lệ thuộc vào quốc gia nào.
– Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, đây là chủ thể tiềm tàng của Luật Quốc tế. Là chủ thể đắc biệt của luật quốc tế (đặc biệt ở chỗ nó là một chủ thể đang trong thời kì quá độ tiến lên thành lập một quốc gia độc lập có chủ quyền).
+ Dân tộc là một cộng đồng nhiều người, khối ổn định chung, được hình thành trong một quá trình lịch sử lâu dài, sinh ra trên cơ sở một ngôn ngữ chung, một lãnh thổ chung, và được biểu hiện trong một nền văn hóa chung.
– Các tổ chức quốc tế liên chính phủ, đây là chủ thể phái sinh của Luật Quốc tế, được hình thành bởi sự hợp tác của các quốc gia trên nhiều lĩnh vực hướng đến lợi ích của các quốc gia và lợi ích chung của cộng đồng.
– Các chủ thể đặc biệt khác.
Tuy nhiên trong trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, vai trò của các cá nhân, tập đoàn, công ty đa quốc gia, các hiệp hội phi chính phủ trong quan hệ quốc tế ngày càng tăng cho nên việc thừa nhận các chủ thể có sự tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế ở một số lĩnh vực nhất định, do đó có quan điểm cho rằng đây cũng là chủ thể của Luật Quốc tế.
Bình luận