Quyền tự do hội họp là một trong những quyền quan trọng giúp thực thi nhiều quyền dân sự, chính trị, cũng như các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa… là thành tố thiết yếu của một xã hội dân chủ, vì nó cho phép các thành viên bày tỏ quan điểm chính trị, tham gia vào các mục tiêu văn học, nghệ thuật hoặc các hoạt động kinh tế, xã hội và văn hóa khác. Vậy Quyền tự do hội họp được quy định như thế nào? Hãy cùng ACC tìm hiểu qua bài viết dưới đây!

1. Quyền tự do hội họp được quy định như thế nào
Trong khuôn khổ pháp luật quốc gia, quyền tự do hội họp được ghi nhận trong hiến pháp, pháp luật nhiều nước, như: Luật Biểu tình (Đức), Luật về tuần hành, hội họp, biểu tình, diễu hành và tập trung (Nga), Hiến pháp Hoa Kỳ... Tuy nhiên, luật pháp quốc tế, pháp luật các quốc gia đều khẳng định, tự do hội họp là quyền có thể bị giới hạn trong những trường hợp nhất định nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân.
Trên cơ sở nội luật hóa pháp luật quốc tế về quyền tự do hội họp, ngay từ khi mới thành lập nước, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã khẳng định tự do hội họp là quyền cơ bản của công dân và bảo đảm thực hiện quyền này trên thực tế. Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 31 nhấn mạnh, tự do hội họp là một trong những nguyên tắc của chế độ dân chủ cộng hòa; tuy nhiên, những cuộc biểu tình phải khai trình trước 24 giờ với các Ủy ban nhân dân sở tại. Ngày 20/5/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 101-SL/L.003 ban bố Luật quy định quyền tự do hội họp. Sau đó, ngày 14/6/1957 Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ban hành Nghị định 257/TTg quy định chi tiết thi hành Sắc lệnh nói trên.
Sắc lệnh 101-SL/L.003 gồm 10 Điều, định rõ:
Điều 1.
Quyền tự do hội họp của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do hội họp.
Điều 2.
Không phải xin phép trước:
- Các cuộc hội họp có tính chất gia đình, giữa thân thuộc, bè bạn;
- Các buổi sinh hoạt của các hội hợp pháp, tổ chức trong trụ sở của hội, các cuộc hành lễ thường lệ của các tôn giáo tổ chức trong những nơi thờ cúng;
- Các buổi sinh hoạt của các đoàn thể trong Mặt trận dân tộc thống nhất, và các cuộc hội họp công cộng do các đoàn thể này tổ chức.
Điều 3.
Để đảm bảo việc giữ gìn an ninh trật tự, các cuộc hội họp công cộng, trừ các cuộc hội họp nói trong Điều 2, phải được Uỷ ban hành chính địa phương cho phép trước.
Điều 4.
Người tổ chức cuộc hội họp phải chịu trách nhiệm về cuộc hội họp.
Điều 5.
Nếu không theo đúng thể lệ về việc xin phép trước thì người tổ chức, tuỳ trường hợp nặng nhẹ, sẽ bị cảnh cáo hoặc truy tố trước toà án và cuộc hội họp có thể bị cấm hoặc bị giải tán.
Trường hợp bị truy tố toà án, người tổ chức cuộc hội họp trái phép sẽ bị phạt tiền từ năm vạn đồng (50.000 đ) đến hai mươi lăm vạn đồng (250.000 đ) và phạt tù từ một tháng đến sáu tháng, hoặc một trong hai hình phạt ấy.
Trường hợp cuộc hội họp bị cấm mà vẫn cứ tổ chức hoặc đã bị giải tán mà vẫn cứ tổ chức lại, thì người chịu trách nhiệm sẽ bị truy tố trước toà án và sẽ bị phạt tù từ một tháng đến một năm.
Điều 6.
Người nào ngăn cản hoặc phá hoại các cuộc hội họp hợp pháp của người khác, ép buộc người khác tham dự vào các cuộc hội họp bất hợp pháp, bất cứ bằng cách nào, có thể bị cảnh cáo hoặc bị truy tố trước toà án và bị xử phạt tù từ một tháng đến một năm.
Điều 7.
Người nào lợi dụng quyền tự do hội họp để hoạt động trái pháp luật, chống lại chế độ, chống lại chính quyền dân chủ nhân dân, chia rẽ dân tộc, phá tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước, tuyên truyền chiến tranh, âm mưu phá hoại sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ, hành động có phương hại đến trật tự an ninh chung, hoặc đến thuần phong mỹ tục, sẽ bị truy tố trước toà án và xử phạt theo luật lệ hiện hành, và cuộc hội họp sẽ bị cấm hoặc bị giải tán.
Điều 8.
Trong tình thế khẩn cấp, xét cần phải tạm thời cấm hội họp, Chính phủ sẽ quyết định.
Điều 9.
Tất cả luật lệ nào trái với luật này đều bãi bỏ.
Điều 10.
Chính phủ quy định những chi tiết thi hành luật này.
Hồ Chí Minh
(Đã ký)
Trong Điều 8 Nghị định 257 có nêu: “Trong tình thế khẩn cấp, các Ủy ban Hành chính liên khu, khu, thành phố Hà Nội và Hải Phòng và các tỉnh trực thuộc Chính phủ trung ương có quyền tạm thời hạn chế các cuộc hội họp ở địa phương mình trong thời gian dài nhất là 5 ngày, nhưng phải báo cáo ngay lên Bộ Nội vụ”.
Có thể thấy, xuyên suốt các bản Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam từ trước tới nay, quyền tự do hội họp được khẳng định là một quyền tự do cơ bản của người dân và được Nhà nước ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 đã nhấn mạnh: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình… theo quy định của pháp luật”. Pháp luật Việt Nam cũng nghiêm cấm hành vi xâm phạm quyền hội họp của công dân (Điều 163, Bộ luật Hình sự năm 2015). Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền của mọi người dân được bày tỏ quan điểm của mình một cách công khai và mạnh mẽ đối với các chủ thể khác mà đặc biệt là đối với Nhà nước. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền tự do hội họp, biểu tình gây mất ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của Nhà nước và công dân.
2. Quy định về quyền được bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà nước
2.1. Trong pháp luật quốc tế
Trong Luật nhân quyền quốc tế, quyền này được quy định trong Điều 25 ICCPR, theo đó, mọi công dân không có bất kỳ sự phân biệt hoặc sự hạn chế bất hợp lý nào đều có quyền bầu cử, ứng cử và quyền có cơ hội tham gia điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện do họ tự do lựa chọn.
Theo ủy ban giám sát thực hiện ICCPR, để bảo đảm tốt quyền bầu cử, ứng cử của công dân, các quốc gia thành viên cần có biện pháp khắc phục những trở ngại về ngôn ngữ, tình trạng mù chữ cũng như đói nghèo khiến công dân không thể thực hiện đầy đủ quyền này. Thêm vào đó, các quốc gia cũng phải bảo đảm là các cuộc bầu cử phải diễn ra một cách tự do và công bằng.
2.2. Trong pháp luật Việt Nam
Trong pháp luật Việt Nam, quyền này trước hết được ghi nhận trong các Điều 27, 28 của Hiến pháp. Theo Điều 28:
“1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước.
2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”.
Điều 27 quy định: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định.”
Các quy định trong Hiến pháp về quyền bầu cử và ứng cử của công dân được cụ thể hoá trong Điều 2 Luật Bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo các Điều này, việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Để bảo vệ quyền bầu cử, ứng cử của công dân, BLHS có hai điều về Tội xâm phạm quyền bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 160), và Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân (Điều 161).
Về quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, ngoài quy định nêu trên của Hiến pháp, pháp luật Việt Nam còn có nhiều quy định khác nhằm tạo điều kiện cho công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội thông qua việc giám sát hoạt động của các cơ quan, cán bộ công chức nhà nước và đại biểu dân cử. Cụ thể, Điều 96 Hiến pháp quy định Chính phủ có trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của nhân dân; Điều 8 Hiến pháp quy định: Các cơ quan, cán bộ và viên chức nhà nước phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của dân; Điều 79 Hiến pháp quy định: Nghĩa vụ của các đại biểu Quốc hội phải thu thập và phản ánh trung thực ý kiến của cử tri vói Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan. Theo Điều 27 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 đại biểu Quốc hội chịu sự giám sát của cử tri, mỗi năm một lần đại biểu phải báo cáo trước cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ của mình; cử tri có thể trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam yêu cầu đại biểu báo cáo công tác và có thể nhận xét về việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu.
Trên đây là Quyền tự do hội họp được quy định như thế nào mà ACC muốn giới thiệu đến quý bạn đọc. Hi vọng bài viết sẽ hỗ trợ và giúp ích cho quý bạn đọc về vấn đề này!
Nội dung bài viết:
Bình luận