Quyền tiếp cận công lý là gì?

Qua các văn kiện quan trọng của Đảng và của pháp luật, Đảng và Nhà nước ta ngày càng ghi nhận rộng rãi và nỗ lực nhằm lượng hóa những giá trị công lý trong đời sống và coi hiệu quả của hoạt động bảo vệ công lý của Tòa án như là một tiêu chí đánh giá mức độ thành công của cải cách tư pháp cũng như trong công cuộc xây dựng, đổi mới và bảo vệ đất nước. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ đề cập đến Quyền tiếp cận công lý là gì? Mời bạn đọc cùng theo dõi

Quyền Tiếp Cận Công Lý

Quyền tiếp cận công lý là gì?

1. Khái niệm công lý

Ở Việt Nam, khái niệm công lý đã được nhắc đến trong một số công trình nghiên cứu gần đây của một số tác giả như: Nguyễn Đăng Dung (Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền) ; Nguyễn Văn Hiển (Bàn về hệ thống pháp luật), Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở “Mối quan hệ giữa pháp luật và công lý – Lý luận và thực tiễn”), Vũ Công Giao (Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp quyền) …

Bên cạnh đó, về khía cạnh ngôn ngữ, khái niệm công lý cũng đã xuất hiện trong một số từ điển, ví dụ như:

Công lý là lẽ phải, lẽ công bằng, phù hợp với pháp luật đương thời, không thiên lệch, không tư vị. Chế độ nào cũng coi tòa án là tượng trưng cho công lý, là cơ quan công lý của chế độ ấy”. Hay công lý là “sự công bằng hay chính nghĩa, sự đúng đắn, lẽ phải. Thường được dùng trong đời sống pháp lý và đặc biệt là trong hoạt động tư pháp”; “Công lý là sự nhận biết đúng đắn và tôn trọng theo lẽ phải các quyền lợi ích chính đáng của mọi người”..

Trong lĩnh vực tư pháp, công lý và bảo vệ công lý được xác định là một trong những mục tiêu cơ bản của Chiến lược cải cách tư pháp của Việt Nam đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị). Cụ thể, Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rõ việc:

Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.

Cùng với đó, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những biện pháp nhằm đảm bảo cơ sở chính trị cho hoạt động cải cách tư pháp để từ đó xây dựng cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa vững chắc trong hoạt động bảo vệ công lý và quyền con người cho nhân dân. Cụ thể, về mục đích và lộ trình thực hiện, Văn kiện xác định:

Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp”.

Như vậy, khái niệm công lý trong Chiến lược cải cách tư pháp và Văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính chất là công lý trong lĩnh vực tư pháp, thể hiện qua việc xét xử bằng các thủ tục tố tụng công bằng, hợp pháp, nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân và của xã hội. Dự thảo Hiến pháp năm 1992 (Sửa đổi) của Uỷ ban Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã dự kiến bổ sung, làm sáng tỏ nhiệm vụ của Toà án nhân dân trước yêu cầu bảo vệ công lý: “Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Quy định này sau đó đã được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 (Khoản 3 Điều 102).

Có thể thấy, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, công lý và bảo vệ công lý đã trở thành một trong những mục tiêu cơ bản, xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta, được xem như là một giá trị tiến bộ xã hội nhân văn, bền vững được toàn xã hội thừa nhận và hướng tới.

Như vậy, dù có nhiều quan niệm về công lý trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nhưng xét cho cùng thì công lý có thể được hiểu là việc bảo đảm sự công bằng, bình đẳng giữa con người với con người đối với các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, người này không được phép làm phương hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, nếu có sự vi phạm về quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì người đó sẽ phải chịu trách nhiệm và trả giá cho những phương hại mà mình đã gây ra.

2. Những đặc điểm cơ bản của công lý

- Công lý thuộc về ý thức xã hội, thuộc về những quan điểm, tư tưởng mang tính hệ thống, phản ánh sâu sắc tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định và có mối liên hệ biện chứng với tồn tại xã hội. Bên cạnh đó, mọi tồn tại đều gắn với không gian và thời gian nên công lý phản ánh tồn tại cũng chỉ có thể được xác định trong một không gian và thời gian cụ thể. Không có khái niệm công lý vĩnh cửu cũng như là công lý bất biến.

- Tồn tại xã hội vận động phát triển không ngừng nên công lý phản ánh tồn tại xã hội cũng vận động phát triển không ngừng. Các tri thức khách quan về mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên ngày càng được khám phá qua sự tiến bộ của khoa học; quyền con người ngày càng được đảm bảo và mở rộng, từ cá nhân đến tổ chức, dân tộc, quốc gia; các thỏa thuận trong đời sống ngày càng đa dạng, các giá trị ngày càng được khám phá để mang lại lợi ích cho con người… Điều đó làm cho nội dung của công lý luôn vận động phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.

- Công lý có tính ổn định tương đối. Do công lý có chứa đựng những giá trị truyền thống, những quy tắc cốt lõi, những quyền, lợi ích, giá trị cơ bản… nên so với tồn tại xã hội, công lý có tính ổn định rất cao, đóng vai quan trọng trong việc duy trì và giữ vững ổn định trật tự xã hội.

- Công lý là biểu hiện của sự đan xen, giao thoa của các hình thái ý thức xã hội với nhau. Công lý liên hệ với ý thức chính trị qua lợi ích các giai tầng trong xã hội; liên hệ với ý thức pháp luật qua các phán xét về tính đúng sai, đánh giá tính hợp pháp và không hợp pháp; liên hệ với ý thức đạo đức qua các giá trị tôn vinh, quy tắc đạo đức trong các quan hệ xã hội; liên hệ với ý thức thẩm mỹ qua những biểu tượng về công lý; liên hệ với ý thức tôn giáo qua các tín ngưỡng; liên hệ với ý thức khoa học qua các sự thật khách quan…

- Công lý có mối liên hệ đặc biệt đối với ý thức pháp luật. Trong xã hội có giai cấp, ý thức pháp luật của giai cấp khác nhau sẽ có sự khác nhau. Giai cấp thống trị muốn các giai cấp khác phục tùng ý chí của mình thì giai cấp thống trị phải viện dẫn những lý lẽ chung làm bệ đỡ cho các quan điểm, tư tưởng của mình để các giai cấp khác có thể chấp nhận, phục tùng. Công lý không phải là ý chí, lý lẽ của số đông, mà là ý chí, lý lẽ chung, ở đó phải có sự “gặp gỡ” của các ý chí, ý kiến khác nhau, phải trở thành những ý chí, lý lẽ chung đúng đắn mà mọi người đều thừa nhận, đó mới là công lý. Nói một cách khác, công lý chính là sự giao thoa của các ý thức pháp luật của các giai tầng trong xã hội có giai cấp, là “cái chung đúng đắn” trong ý thức pháp luật.

- Công lý có mối liên hệ chặt chẽ với công bằng. Công bằng cũng là lẽ đúng đắn được mọi người thừa nhận, nó chứa đựng lẽ thật khách quan, quy tắc “có đi có lại”, các giá trị… để xác định sự tương xứng giữa vai trò và vị thế, giữa cái tạo ra, cái đáp ứng với cái nhận lại hay để đối xử khách quan, vô tư trong những quan hệ nhất định… Chính vì vậy, nhiều học giả nghiên cứu đều cho rằng, công bằng chính là công lý hoặc công lý chính là lý lẽ của sự công bằng. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có sự khác biệt, công bằng là lẽ đúng đắn hướng về kết quả là sự tương xứng, sự không thiên vị khi xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm; còn công lý là lẽ đúng đắn thiên về căn nguyên để xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm hơn.

- Công lý, pháp luật và nhà nước là các hiện tượng không thể tách rời. Xét về bản chất, công lý chính là thuộc tính xã hội bên cạnh thuộc tính giai cấp, một trong hai thuộc tính thể hiện bản chất của nhà nước và pháp luật. Công lý phản ánh những lợi ích chung, thuộc về số đông rộng lớn, thể hiện ở những giá trị chung, lẽ đúng đắn, mang tính ổn định; còn tính giai cấp phản ánh ý chí của giai cấp thống trị, thuộc về thiểu số, thể hiện tính nhanh nhạy, tính khuynh hướng, nắm bắt nhu cầu phát triển.

Trong mối quan hệ với tính giai cấp, công lý được xem là cái ưu thế, là cái có trước hoặc là cái nền tảng để tính giai cấp của pháp luật dựa vào đó bộc lộ, thể hiện, thuyết phục và để quản lý xã hội cho hiệu quả. Như Ăng-ghen đã nhận định, những hoạt động về mặt xã hội là cơ sở của sự thống trị và sự thống trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện những hoạt động về mặt xã hội của nó. Lịch sử đã thể hiện, sự phát triển các kiểu nhà nước và pháp luật qua các chế độ, chẳng qua là sự thừa nhận vai trò ngày càng to lớn của tính xã hội so với tính giai cấp trong đời sống xã hội . Bên cạnh đó, việc xác định công lý là nền tảng của tính giai cấp không có nghĩa là hạ thấp tính giai cấp mà chỉ là nhấn mạnh, nêu rõ tầm quan trọng của tính xã hội để quản lý xã hội cho hiệu quả. Mặt khác, việc xác định công lý là thuộc tính xã hội không có nghĩa là pháp luật và nhà nước chứa đựng hoàn toàn tính công lý, bởi công lý và pháp luật chỉ giao thoa với nhau, công lý vẫn còn có phạm vi điều chỉnh khác như tập quán, lẽ sống, đạo đức… nơi mà pháp luật không thể hoặc không cần tác động, điều chỉnh.

3. Quyền tiếp cận công lý của người dân

Việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người thông qua nhiều cơ chế, phương thức khác nhau để giải quyết các tranh chấp, tuy nhiên trong phạm vi một quốc gia, hiệu quả nhất của tiếp cận công lý là tìm kiếm sự công bằng, khắc phục sự bất công, thiệt hại, tổn thương thông qua các thiết chế quyền lực của nhà nước, đặc biệt là thiết chế tư pháp - Tòa án.

Quyền tiếp cận công lý với mọi người dân, trước hết là Tòa án phải dễ tiếp cận, phải bảo đảm cho tất cả các đương sự, những người "yếu thế" đang bị xâm hại nhận được sự trợ giúp pháp lý mà không gặp phải khó khăn gì. Quyền tiếp cận công lý là quyền được thông tin đầy đủ về quy trình, kết quả tố tụng của vụ án do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Việc niêm yết công khai thủ tục tư pháp là một yêu cầu bắt buộc đối với các trụ sở Tòa án; tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng của người tham gia tố tụng là yêu cầu quan trọng của nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận công lý. Các quy định về thẩm quyền của Tòa án (thẩm quyền theo lãnh thổ, thẩm quyền theo vụ việc) phải bảo đảm để các bên có thể tiếp cận đến Tòa án giải quyết vụ việc một cách hợp lý và bình đẳng. Tòa án có thẩm quyền phải có trách nhiệm thụ lý vụ án để giải quyết theo quy định của pháp luật, có nghĩa vụ hướng dẫn cho các bên hoặc chuyển đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đến Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, người yêu cầu nếu vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác, bảo đảm vụ việc được xét xử một cách nhanh chóng, hợp lý, tránh kéo dài, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên và tốn kém về thời gian, tiền của của cá nhân và Nhà nước.

Điều 10, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (UDHR) quy định rằng "mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập và khách quan" để xác định các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ. Mọi người đều được đối xử công bằng trước tòa án, được suy đoán vô tội và được đảm bảo những tố tụng tối thiểu dành cho bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự như được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình; có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn; được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý; được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng buộc tội mình và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên tòa và thẩm vấn họ tại tòa;... (khoản 3, Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR). Được bảo vệ bằng một phiên tòa công bằng là yếu tố thiết yếu để đảm bảo các quyền cơ bản của con người như quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân.

Quyền tiếp cận công lý đã được ghi nhận và bảo đảm trong Hiến pháp và pháp luật tố tụng ở nước ta, Chương trình cải cách tư pháp đến năm 2020 và kế hoạch công tác cải cách tư pháp của ngành TAND đã đặt ra mục tiêu: "Nghiên cứu, từng bước thực hiện đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án theo hướng công khai, đơn giản, thuận tiện để người dân dễ dàng thực hiện quyền khởi kiện của họ trước Tòa án, người dân khởi kiện ở một Tòa án, Tòa án có trách nhiệm xác định thẩm quyền giải quyết thuộc cơ quan nào để chuyển hồ sơ và thông báo cho người khởi kiện biết; công khai hóa thủ tục tiếp cận hồ sơ, cung cấp tài liệu, thông tin, trích lục bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật". Việc khẳng định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền trong Hiến pháp 2013 với việc hiến định các giá trị của Nhà nước pháp quyền như quyền con người, quyền tư pháp của Tòa án, nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ các giá trị đã được ghi nhận của Tòa án,… có thể thấy mục đích cao cả, trọng tâm của Nhà nước ta hướng tới là vì con người, vì công lý.

Quyền được tiếp cận công lý được coi là thước đo bảo đảm công bằng và bình đẳng của mọi người dân trong một xã hội. Sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận công lý có thể tạo ra từ tâm lý truyền thống của người dân trong việc chọn lựa các phương thức bảo đảm quyền của mình khi có tranh chấp (ngại kiện tụng) nhưng cũng không thể phủ nhận rằng tính hiệu quả của các thiết chế công quyền trong việc bảo đảm quyền con người còn chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân. Việc cải cách tư pháp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật là nhu cầu cấp thiết bảo đảm quyền con người hiện nay ở Việt Nam. Cần phải hiện thực hóa vai trò bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ hàng đầu của Tòa án để người dân tin tưởng và lựa chọn Tòa án làm thiết chế bảo vệ quyền của mình.

Qua 15 năm thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực như hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự, hoàn thiện pháp luật về tổ chức của các cơ quan tư pháp, hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Chất lượng hoạt động tư pháp được nâng lên. Việc tranh tụng tại phiên tòa bước đầu đạt được một số kết quả tích cực đã tạo không khí dân chủ trong hoạt động tư pháp… Có thể nói, kết quả cải cách tư pháp đã tác động tích cực đến khả năng và cơ hội tiếp cận công lý, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp - đặc biệt là trong hoạt động xét xử của Tòa án.

Trên đây là những nội dung quyền tiếp cận công lý là gì? Nếu có vướng mắc phát sinh bạn đọc vui lòng liên hệ ngay với chúng tôi để được hỗ trợ giải đáp một cách nhanh chóng nhất

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo