Quốc hội là cơ quan đặc biệt nhất trong bộ máy của nhà nước Việt Nam ta. Chức năng quan trọng và quen thuộc nhất của Quốc hội đó chính là lập pháp. Chúng ta hay cùng ACC tìm hiểu về Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp hay không thông qua bài viết Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp phải không dưới đây!
1. Quyền lập pháp là gì ?
Lập pháp là một trong ba chức năng của nhà nước, cùng với quyền hành pháp và quyền tư pháp hợp thành quyền lực nhà nước.
Lập pháp, hiểu theo nghĩa rộng, trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước, bao gồm vừa làm hiến pháp và sửa đổi hiến pháp, vừa làm luật và sửa đổi luật, nhưng xét trong khuổn khổ, phạm vi của ngành luật hiến pháp, tức hiểu theo nghĩa hẹp thì quyển lập pháp chỉ bao gồm “làm luật và sửa đổi luật”, còn làm hiến pháp và sửa đổi hiến pháp thuộc quyền lập hiến.
Quyền lực nhà nước được tạo thành từ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc phân tách quyền lực nhà nước thành ba quyền nói trên bắt nguồn từ học thuyết tam quyền phân lập mà cha đẻ của nó là John Locke. Học thuyết của ông sau đó được phát triển bởi nhà xã hội học và luật học người Pháp Montesquieu.
Một trong những bước tiến quan trọng trong nhận thức về tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta thời kỳ đổi mới là thừa nhận những hạt nhân hợp lý của thuyết tam quyền phân lập, theo đó mặc dù trong tổ chức bộ máy nhà nước không có sự phân chia và đối trọng giữa các nhánh quyền lực nhưng thừa nhận sự phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền ấy. Theo quy định tại Hiến pháp 2013 thì “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và quyền lập pháp”. Như vậy, quyền làm luật được trao cho Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do toàn thể nhân dân bầu ra.
2. Cơ quan tiến hành lập pháp.
Tại Khoản 1 Điều 70 Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có nhiệm vụ và quyền hạn “Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật”. Như vậy quyền lập pháp thuộc về Quốc hội và Quốc hội có thể ủy quyền cho cơ quan nhà nước khác thay mặt mình ban hành văn bản dưới luật để quản lý xã hội. Nội dung căn bản của quyền lập pháp chính là quyền đồng ý thông qua một chính sách hoặc một dự luật nào đó. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua dự án luật, tạo nên các quy tắc xử sự bắt buộc các chủ thể trong xã hội phải thực hiện.
Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định về Quốc hội như sau:
- Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Quốc hộilàm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số.
- Nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội là 05 năm, kể từ ngày khai mạc kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa đó đến ngày khai mạc kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá sau.
- Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định việc làm Hiến pháp hoặc sửa đổi Hiến pháp.
- Quốc hội quyết định làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
3. Quy định của pháp luật về quyền lập pháp
Điều 83 Hiến pháp năm 1992, quy định một cách chung các chức năng của Quốc hội, khi đề cập chức năng hàng đầu của Quốc hội là chức năng lập pháp, đã viết: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”, nhưng khi quy định cụ thể bao giờ cũng phân biệt lập hiến với lập pháp và lập hiến là quyển năng riêng biệt không lẫn với quyền lập pháp chỉ bao gồm “làm luật và sửa đổi luật. Trong tinh thần đó, Hiến pháp đã quy định trình tự, thủ tục riêng cho “việc làm hiến pháp và sửa đổi hiến pháp, khác với trình tự, thủ tục làm luật và sửa đổi luật”. Xét theo hiệu lực pháp lý, hiến pháp và luật, tuy đều được Quốc hội thông qua nhưng có hiệu lực pháp lí khác nhau. Cũng vì vậy, không được đánh đồng lập pháp với lập hiến mà luôn luôn phải có sự phân biệt như hai quyền năng khác nhau của cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan cao nhất của quyền nhà nước.
Hiện nay, quy trình lập pháp ở nước ta đã được luật hóa bằng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Căn cứ theo trình tự thời gian ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể thấy quy trình lập pháp ở nước ta bao gồm hai giai đoạn chính, thứ nhất là lập và quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và thứ hai là chuẩn bị, xem xét và thông qua các dự án luật. Căn cứ vào chủ thể ban hành có thể chia quy trình lập pháp thành công đoạn Chính phủ và công đoạn Quốc hội. Công đoạn Chính phủ bao gồm các hoạt động đề xuất chương trình xây dựng pháp luật, phân tích chính sách và soạn thảo luật. Công đoạn Quốc hội thực hiện các hoạt động thẩm tra dự thảo luật, thảo luận, cho ý kiến và biểu quyết thông qua.
Công đoạn Chính phủ là công đoạn thiết kế luật, đòi hỏi nhiều thời gian, sức lực và tài lực. Nếu công đoạn này thực hiện tốt thì công đoạn Quốc hội sẽ diễn ra được nhanh chóng và kết quả là Quốc hội sẽ có nhiều thời gian để thực hiện hai chức năng quan trọng khác của mình, đó là chức năng giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Thời gian qua, Quốc hội nước ta áp dụng quy trình thông qua luật hai bước, theo đó mỗi đạo luật sẽ được xem xét tại hai kỳ họp Quốc hội, kỳ họp trước cho ý kiến và kỳ họp sau thông qua.
Quy trình lập pháp được tiến hành theo một trình tự, giai đoạn từ sáng kiến pháp luật, soạn thảo văn bản, trình dự án luật, thẩm tra, thảo luận, thông qua. Do đó soạn thảo luật chỉ là một công đoạn của hoạt động lập pháp mà không phải là yếu tố cấu thành quyền lập pháp. Hoạt động lập pháp được tiến hành một cách thường xuyên theo chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và cả nhiệm kỳ của Quốc hội. Ở nước ta thì đa số các đạo luật đều do Chính phủ soạn thảo và trình lên Quốc hội do đó chủ thể lập pháp không nhất thiết là chủ thể soạn thảo luật. Tuy nhiên, dựa vào mối quan hệ giữa hai cơ quan là Quốc hội và Chính phủ thì Quốc hội chỉ ban hành luật dựa trên nhu cầu chính sách do Chính phủ báo cáo và thông qua chương trình làm việc của Chính ph
Căn cứ Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2020 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2021) thì nhìn chung quy trình lập pháp ở nước ta gồm hai bước: Lập, quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; Chuẩn bị, xem xét và thông qua các dự án luật. Chính phủ sẽ tiến hành đề xuất chương trình xây dựng pháp luật, phân tích chính sách và soạn thảo luật. Tiếp theo, Quốc hội sẽ tiến hành thẩm tra dự thảo luật, thảo luận, cho ý kiến và thông qua. Tại Quốc hội thì mỗi đạo luật sẽ được cho ý kiến tại kỳ họp trước và thông qua tại kỳ họp sau.
4. Vai trò của lập pháp
Lập pháp giúp tạo ra những đạo luật điều chỉnh các mối quan hệ trong cuộc sống theo đường lối, quan điểm của Đảng, bảo đảm định hướng XHCN, dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam, có nghiên cứu tham khảo chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài, nhưng không sao chép rập khuôn.
Trong những năm qua, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo việc đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp. Các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 2 và Nghị quyết 8 của Ban chấp hành Trung ương khóa VII “về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” và các báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương trình Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X, XI đã xác lập quan điểm cơ bản làm cơ sở quan trọng để đẩy mạnh hoạt động lập pháp của Quốc hội
Trên đây là các thông tin về Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp phải không? mà ACC cung cấp tới quý bạn đọc. Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào cần hỗ trợ về vấn đề trên vui lòng liên hệ với Công ty Luật ACC của chúng tôi. Công ty Luật ACC luôn cam kết sẽ đưa ra nhưng hỗ trợ tư vấn về pháp lý nhanh chóng và có hiệu quả nhất. Xin chân thành cảm ơn quý bạn đọc.
Nội dung bài viết:
Bình luận