Quyền bào chữa là gì? Quyền bào chữa của bị can, bị cáo

Để đảm bảo quyền lợi cho bị can và bị cáo trong vụ án thì pháp luật cho phép bị can bị cáo được tự mình bào chữa hoặc được mời người bào chữa thực hiện việc bào chữa để chứng minh các tình tiết buộc tội của mình. Vậy quyền bào chữa là gì? Bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa bằng cách nào trong tố tụng hình sự. Hãy cũng ACC theo dõi bài viết dưới đây.

Quyền bào chữa là gì? Quyền bào chữa của bị can, bị cáo

1. Quyền bào chữa là gì?

Bào chữa là quyền của bị can, bị cáo được đưa ra các chứng cứ, lý lẽ, được đặt câu hỏi, được tranh luận trong giai đoanh diều tra và gia đoạn xét xử.

Quyền bào chữa là tổng các quyền mà pháp luật quy định, cho phép bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự trong vụ án hình sự hoặc để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

2. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo:

2.1. Tự bào chữa

Quyền tự bào chữa là quyền năng tố tụng đặc thù của bị can, bị cáo được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho phép bị can, bị cáo tự thực hiện các hành vi tố tụng và quyền tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của họ trước các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Tự bào chữa là một hình thức thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo và cũng là nội dung quan trọng của quyền bào chữa trong tố tụng hình sự. Pháp luật Việt Nam cho phép bị can, bị cáo được tự mình thực hiện các hành vi tố tụng như đưa ra chứng cứ và những yêu cầu có lợi cho mình khi tham gia tố tụng mà không nhất thiết phải có sự tham gia của người bào chữa.

Với quy định tại Điều 49, Điều 50 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003, BLTTHS năm 2015 quy định bị can, bị cáo có một số quyền mới sau:

- Bị can có quyền được biết lý do mình bị khởi tố

Quy định này biểu hiện công minh, tiến bộ. Một người khi bị khởi tố với tư cách là bị can thì họ phải biết tại sao mình bị khởi tố. Nếu họ bị khởi tố mà họ không phạm tội thì họ phải có quyền đưa ra các chứng cứ nhất định để chứng minh là mình vô tội; đồng thời có quyền khiếu nại và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét. Việc giải thích cho bị can quyền, nghĩa vụ và lý do mình bị khởi tố cũng chính là để bị can nắm bắt được thông tin, chủ động trong việc thực hiện quyền bào chữa của mình. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát  có trách nhiệm giải thích cho bị can và phải được ghi lại nội dung theo biên bản hỏi cung sau đó đưa vào hồ sơ vụ án, song điều này cũng giúp cho bị can biết được các quyền để chống lại khi bị xâm hại đến tính mạng, sức khỏe một cách trái pháp luật. Ngoài ra, bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì sẽ lường trước được tình trạng ra quyết định khởi tố bị can một cách tùy tiện, thiếu căn cứ theo quy định của pháp luật.

- Bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội

Đây là quyền quan trọng của bị can, bị cáo và giải quyết được những bất cập trong các vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng lời khai bất lợi cho bị can, bị cáo hoặc chỉ sử dụng duy nhất lời nhận tội của họ để kết tội khi đưa ra truy tố, xét xử. Vậy, bị can, bị cáo có quyền tự chủ về việc khai báo. Đối với những vấn đề bất lợi, họ có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải thừa nhận mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Song khi làm việc với các cơ quan tố tụng, họ có thể không bắt buộc phải  trả lời một số câu hỏi mà họ cho là chống lại họ và không buộc phải khai nhận mình có tội. Điểm mới này thể hiện sự bảo đảm tính minh bạch của pháp luật và tạo sự nhận thức thống nhất trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung.

- Bị can, bị cáo có quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá

Sau khi đưa ra những chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, để có thể tự gỡ tội cho mình hoặc dùng làm tình tiết giảm nhẹ, bị can, bị cáo có quyền trình bày ý kiến của mình về những vật đó. Khi nhận được các chứng cứ, tài liệu, đồ vật do bị can, bị cáo cung cấp thì Hội đồng xét xử phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định các chứng cứ, tài liệu, đồ vật đó có được coi là chứng cứ trong vụ án hay không và giá trị của nó trong việc xác định sự thật của vụ án hay chỉ xem nó là tài liệu.

- Bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu

Điều này bảo đảm cho bị can được xem xét tất cả những tài liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội, và việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra để cho bị can biết mình bị buộc tội gì và bằng những chứng cứ nào. Tạo điều kiện cho bị can có thể thực hiện tốt quyền bào chữa của mình.

- Bị cáo có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa

Để tăng tính chủ động cho bị cáo, giúp bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình thì việc đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa sẽ làm được tốt hơn. Đồng thời việc hỏi trực tiếp hay còn gọi là đối chất trực tiếp tại phiên tòa cũng có thể được coi là căn cứ quan trọng làm cho việc xét xử được khách quan, toàn diện, đầy đủ.

- Bị cáo có quyền được nói lời sau cùng trước khi nghị án

Đối với những tình tiết, những chứng cứ có lợi cho bị cáo khi nghị án thì quyền này tạo điều kiện và giúp bị cáo có thể đề nghị với HĐXX lưu ý. Dựa vào đó, ra một bản án có căn cứ và hợp pháp.

- Bị cáo có quyền xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa

Bị cáo có quyền xem biên bản phiên tòa và yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản đó với mục đích tránh sai sót trong việc ghi chép lại quá trình diễn ra tại phiên tòa, Đồng nghĩa với việc bị cáo không có những yêu cầu bổ sung hoặc thay đổi khác thì tức là bị cáo đồng ý với quá trình xét xử

- Bị cáo còn có các quyền khác theo quy định của pháp luật. Những quyền này sẽ được thể hiện rõ sau khi các văn bản hướng dẫn có hiệu lực.

1.2. Bị can, bị cáo nhờ người khác bào chữa

Quyền nhờ người khác bào chữa là quyền năng tố tụng đặc thù của bị can, bị cáo bào chữa cho mình bằng sự giúp đỡ của luật sư, người đại diện hợp pháp của họ, bào chữa viên nhân dân hoặc trợ giúp viên pháp lý theo quy định của pháp luật. Thự tế hiện nay do nhiều lý do khác nhau nên không phải bị can, bị cáo nào cũng có khả năng tự bào chữa một cách có hiệu quả. Nhờ người khác bào chữa là hình thức thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo có hiệu quả và nó góp phần không hề nhỏ vào việc giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được khách quan.

Trên đây ACC đã trình bày nội dung liên quan đến quyền bào chữa là gì cũng như pháp luật quy định quyền bào chữa của bị can bị cáo như thế nào. Trong quá trình tìm hiểu, nếu quý khách hàng còn thắc mắc xin vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website của Công ty Luật ACC.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo