I - Khái niệm, nội dung và đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính
1. Khái niệm
Luật hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, vì vậy quy phạm pháp luật hành chính là các quy tắc xử sự do nhà nước thiết lập để điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Quy phạm pháp luật hành chính là một loại quy phạm pháp luật, giống như mọi quy phạm pháp luật có tính ràng buộc chung khác, được áp dụng nhiều lần và hiệu lực của chúng không phụ thuộc vào việc áp dụng.
Ràng buộc chung thể hiện ở chỗ mọi cơ quan, tổ chức, công dân là đối tượng thực hiện các quy định của Bộ luật đều có nghĩa vụ thực hiện, nếu không tự nguyện thực hiện hoặc áp dụng về mặt tổ chức, hành chính. , Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế để bảo đảm thực hiện. Chuẩn mực pháp lý hành chính cũng giống như mọi chuẩn mực pháp lý khác, thường được áp dụng nhiều lần. Cũng có những quy định hành chính chỉ được áp dụng một lần mà hiệu lực không phụ thuộc vào việc thực hiện (như quy định về tổ chức, cơ cấu của bộ máy hành chính nhà nước, quyết định ban hành điều lệ, quy định, quyết định thay đổi). chính phủ). , hoặc ba đặc điểm bên ngoài của các quy định hành chính và pháp lý. Pháp luật chung nêu trên có thể có mặt trong một loại quy định tại một thời điểm, nhưng trong một loại quy định khác, chỉ có hai hoặc ba trong số các đặc điểm này. Không nhất thiết phải có ba đặc điểm hiện hữu để trở thành một quy phạm pháp luật nói chung, hay quy phạm pháp luật hành chính mới nói riêng. Luật hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội toàn cầu mới hình thành và phát triển trong tổ chức và quản lý nền kinh tế quốc dân, mọi mặt hoạt động của lĩnh vực văn hóa - xã hội và hành chính - chính trị thông qua cách thức luật hành chính xác định tập hợp các quyền và nghĩa vụ có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. để các bên tham gia vào quá trình quản lý trên mọi lĩnh vực của đời sống. Nói cách khác, các quy phạm pháp luật hành chính quy định tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan hệ pháp luật hành chính. Các chủ thể này là cơ quan nhà nước, người có chức quyền, tổ chức xã hội và công dân. Vì vậy, nếu không có vai trò điều chỉnh của pháp luật hành chính thì không thể hình dung làm sao có thể đảm bảo cho hoạt động quản lý được thực hiện chính xác, đúng quy luật khách quan, rõ ràng. mạch trong tất cả các liên kết của hệ thống quản lý. Vì vậy, văn bản dưới luật là công cụ pháp lý cần thiết và rất quan trọng trong tay nhà nước cùng với các phương tiện khác như chính sách, kế hoạch, tài chính, giá cả, tiền lương để thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quản lý được cụ thể hóa trong quy phạm pháp luật hành chính, được quy định bởi địa vị pháp lý hành chính do Hiến pháp và pháp luật quy định. Vì vậy, trong quan hệ pháp luật hành chính, đối tượng bắt buộc phải tham gia với tư cách là người đại diện cho nhà nước có quyền lực nhà nước trước hết liên quan đến các cơ quan hành chính nhà nước. Ở một mức độ nào đó, các cơ quan nhà nước khác hoặc tổ chức xã hội cũng trở thành chủ thể bắt buộc trong quan hệ pháp luật hành chính khi được pháp luật trao quyền thực hiện các chức năng quản lý hành chính nhà nước. Các quy phạm pháp luật hành chính quy định cụ thể, chi tiết hoặc bổ sung các cơ chế nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ pháp luật hành chính, cụ thể là công dân.
Để thực hiện nhiệm vụ là chủ thể bắt buộc của quan hệ pháp luật hành chính, pháp luật quy định thẩm quyền (quyền và nghĩa vụ) của các chủ thể bắt buộc, đồng thời quy định trách nhiệm tương ứng của họ. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc nhằm ngăn ngừa khả năng lạm quyền, vi phạm các quyền tự do của công dân. Nhưng đối với chủ thể nào thì pháp luật phải quy định cho phù hợp với nghĩa vụ của mình. Chẳng hạn, khi quy định về quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, pháp luật cũng quy định nghĩa vụ thực hiện các quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Hơn nữa, quyền của chủ thể này phải phù hợp với nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ thể khác. Và không chỉ chủ thể bắt buộc trong quan hệ pháp luật hành chính mà chủ thể tùy chọn cũng có quyền yêu cầu chủ thể kia thực hiện những hành vi nhất định do pháp luật hành chính quy định (ví dụ: quyền tố cáo, quyền khiếu nại).
2. Đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính
Luật hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính của Nhà nước theo phương thức mệnh lệnh, thần phục. Vì vậy, hầu hết các luật hành chính đều mang tính bắt buộc, nghĩa là chúng quy định hành vi phải tuân theo. Nếu không, họ phải chịu trách nhiệm trước nhà nước. Ngoài ra, một số biện pháp trách nhiệm pháp lý được quy định trực tiếp trong bộ luật hành chính. Mệnh lệnh được thể hiện trong các luật hành chính khác nhau:
- Có loại quy phạm trực tiếp bắt buộc hoặc ngăn cấm hành động, theo một phương thức nhất định trong một điều kiện nhất định.
- Có loại quy phạm cho phép ta lựa chọn một trong các phương án ứng xử nhất định do quy phạm đã được định sẵn.
- Có loại quy phạm trao khả năng hành động theo phán đoán của bản thân, nghĩa là thực hiện hoặc không thực hiện các hành vi do quy phạm này quy định. Loại quy định này phổ biến trong các trường hợp sử dụng quyền chủ thể của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Ví dụ, công dân có thể hoặc không thể sử dụng quyền khiếu nại về hành vi mà họ cho là không phù hợp, vi phạm các quyền tự do và lợi ích của họ bởi một người hoặc một cơ quan có thẩm quyền. . Vì vậy, tương ứng với các mức độ biểu hiện của tính mệnh lệnh này, chúng ta có các loại quy phạm bắt buộc, quy phạm cho phép và quy phạm cho phép. Như vậy, yếu tố mệnh lệnh tồn tại trong phần lớn các quy phạm hành chính, nhưng mức độ có khác nhau.
Tuỳ theo từng vấn đề, từng ngành, lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước mà việc kết hợp các loại quy định này khác nhau để đạt được mục đích điều chỉnh. Chẳng hạn, lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn xã hội có đặc thù là các quy định mang tính ngăn cấm, bên cạnh việc thường sử dụng các tiêu chuẩn quy định cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ bảo vệ trật tự, an toàn xã hội và các quy định về giới thiệu, đề xuất. biện pháp, hình thức áp dụng. Trong lĩnh vực kinh tế, tiêu biểu cho quy phạm cho phép kết hợp hài hòa với quy phạm ngăn cấm. Các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của công dân thường được đặc trưng bởi các tiêu chuẩn hành động bắt buộc (chính quyền chỉ được phép hành động theo một số cách nhất định, theo quy định của pháp luật hành chính). Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, trong khi phương pháp điều chỉnh pháp luật: làm mọi việc trừ những điều luật cấm ngày càng quan trọng thì trong lĩnh vực điều chỉnh pháp luật hành chính cũng cần cân nhắc, vận dụng sáng suốt trong từng trường hợp cụ thể, cán bộ là chỉ được phép làm những gì pháp luật cho phép. Về nguyên tắc, quan thứ nhất chỉ áp dụng đối với vấn đề quy định các quyền tự do và nghĩa vụ của công dân, đơn vị kinh tế và tổ chức cơ sở. Đối với cơ quan nhà nước, phương thức thứ hai là chủ yếu, vì nó nằm trong thẩm quyền của nhà nước, nghĩa là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, và không thể từ chối trì hoãn việc thực hiện các quyền này. Có như vậy pháp luật, kỷ cương, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong hoạt động quản lý hành chính của nhà nước mới được bảo đảm. II - Cơ cấu pháp lý của luật hành chính
Cấu trúc quy phạm hành chính cũng như cấu trúc quy phạm pháp luật nói chung bao gồm hai phần: phần giả định và phần hệ quả (hậu quả có thể là quy định hoặc chế tài)(1).
Giả định là một phần của mã nêu rõ các điều kiện thực tế theo đó các quy tắc có thể được áp dụng hoặc thi hành. Nó trả lời các câu hỏi: Ai? Khi? Trong hoàn cảnh nào? Quy định là bộ phận của quy phạm đặt ra các quy tắc xử sự, tức là nội dung của quyền và nghĩa vụ, trình tự thực hiện quyền và nghĩa vụ. Nó trả lời câu hỏi: phải làm gì? phải làm gì? Làm sao?
Hình phạt là phần quy phạm quy định các biện pháp tác động của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm các quy định của quy chế, nó trả lời cho câu hỏi: nếu không thực hiện đúng các quy định của Nhà nước thì hậu quả sẽ như thế nào? Tuy nhiên, các quy định pháp luật có đặc điểm riêng của họ.
Các tiền giả định của quy định hành chính có thể là tuyệt đối (ví dụ: công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên...) hoặc tương đối, tức là điều kiện áp dụng của quy tắc là tương đối, được mô tả một cách chung chung, quyết định áp dụng hay không. việc áp dụng mã là theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Chẳng hạn, phần giả định tại Điều 43 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính quy định: Trong trường hợp cần ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm hành chính hoặc để bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền... Chúng ta thường Trong nội quy bắt gặp một loại giả định phức tạp, nêu nhiều tình tiết, điều kiện, hơn nữa tính chính xác thấp do tính phức tạp của hoạt động quản lý. Vì vậy, nâng cao tính xác định của các giả định là vấn đề cần được quan tâm trong quá trình hoàn thiện pháp luật hành chính. Chế định là bộ phận trung tâm và cơ bản của luật hành chính. Đặc trưng của quy phạm pháp luật hành chính là tính bắt buộc dưới các hình thức cấm, cho phép, trao quyền, buộc thực hiện một hành vi nhất định và chủ yếu được thể hiện trong các quy định của quy phạm pháp luật hành chính. Trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật hành chính, đại đa số các điều khoản chỉ nêu các điều khoản, được giả định hoặc hàm ý, hoặc chỉ được nêu trong một số điều (ví dụ: các văn bản về thẩm quyền của cơ quan chủ quản).
Chế tài của quy phạm hành chính thường không xuất hiện bên cạnh các tiền giả định hoặc quy định, trừ một số loại văn bản có quy định chung về chế tài (ví dụ: Điều 39 quy định của Pháp về chế tài thanh tra, ban hành ngày 29/3/1990) các quy định về xử phạt của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; ban hành ngày 02 tháng 7 năm 2002. Phần xử phạt của một bộ luật hành chính, trong hầu hết các trường hợp, không những không có trong cùng một điều, chương, mục hoặc văn bản như giả định hoặc giả định của nó, mà thậm chí còn có trong các văn bản thuộc lĩnh vực luật lao động, luật hình sự. Vì vậy, trong trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật hành chính, ngoài các biện pháp cưỡng chế hành chính (bao gồm cả biện pháp xử phạt hành chính), còn có thể áp dụng các biện pháp trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm vật chất, trách nhiệm công vụ. Tính chế tài của quy định hành chính còn có thể được thể hiện bằng các thước đo tác động xã hội, trách nhiệm chính trị, đạo đức (ví dụ: Trách nhiệm của Chính phủ đối với nhân dân, trách nhiệm về phẩm chất của người thừa hành, v.v...).
Cũng như giả thuyết đặt ra, yêu cầu cấp thiết là tăng cường tính chính xác, rõ ràng, cụ thể của các quy định pháp luật hành chính và hình phạt của nước ta. Đặc biệt là phần xử phạt, vì có những lĩnh vực thường chỉ quy định hình thức xử phạt chung chung (phổ biến trong các văn bản như Pháp lệnh Thanh tra, Luật Hải quan, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, v.v...) vẫn còn nhiều khoảng trống. Việc quy định quá mức trách nhiệm chung về chính trị, đạo đức, xã hội cũng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề tính pháp chế, kỷ cương trong quản lý hành chính nhà nước. III – Phân loại quy phạm pháp luật hành chính
Luật hành chính, một ngành luật chính trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có đặc điểm là các quy định hành chính nằm rải rác trong các văn bản do các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương ban hành.
Việc phân loại quy phạm pháp luật hành chính dựa trên nhiều căn cứ khác nhau.
1. Xét về nội dung và hình thức của thủ tục
Quy phạm hành chính được chia thành: quy phạm vật chất và quy phạm thủ tục. Chuẩn mực vật chất là chuẩn mực trả lời cho câu hỏi phải làm gì, nên tuân theo những quy tắc ứng xử nào. Và các quy tắc tố tụng trả lời câu hỏi làm thế nào để làm điều đó, các quy tắc được thực hiện theo thứ tự nào.
Như vậy, quy phạm pháp luật hành chính được chia thành hai bộ phận: quy phạm nội dung và quy phạm tố tụng của quy phạm pháp luật hành chính.
Mỗi bộ phận có các quy tắc khác nhau. Mỗi thể chế được tạo thành từ một tập hợp các chuẩn mực chi phối một tập hợp các mối quan hệ xã hội giống nhau về nội dung và bản chất.
a) Quy phạm vật chất Quy phạm pháp luật hành chính bao gồm các quy phạm sau:
- Về nguyên tắc quản lý hành chính của Nhà nước;
- Về địa vị pháp lý hành chính của cơ quan hành chính nhà nước;
- Về địa vị pháp lý hành chính của đối tượng quản lý - các đơn vị cơ sở, xí nghiệp, công ty, tổ chức phi thương mại... - Về địa vị pháp lý và hành chính của tổ chức xã hội, đoàn thể;
- Trong công vụ, viên chức nhà nước;
- Về địa vị pháp lý hành chính của công dân;
- Về hình thức, phương thức quản lý hành chính Nhà nước;
- Về quyết định hành chính của Nhà nước;
- Về cưỡng chế hành chính và trách nhiệm hành chính;
- Về kiểm soát hoạt động hành chính;
- Về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Các quy định về quản lý hành chính nhà nước về ngành, lĩnh vực là bộ phận cấu thành riêng của luật hành chính, như: quản lý nhà nước về y tế, văn hóa, xã hội; về an ninh - quốc phòng; Tài chính; về nông nghiệp; về ngành; về giao thông...
b) Quy định, thủ tục Pháp luật hành chính
Quy phạm tố tụng Quy phạm pháp luật hành chính là một bộ phận quan trọng của quy phạm pháp luật hành chính. Các quy tắc tố tụng là phương tiện mang lại sức sống cho các tiêu chuẩn nội dung của luật hành chính và một số ngành luật khác. Vì vậy, có thể nói quy phạm tố tụng phát sinh trên cơ sở quy phạm nội dung. Tuy nhiên, các quy tắc thủ tục được phân biệt với các quy tắc nội dung vì chúng có mục đích và phạm vi điều chỉnh riêng.
Thủ tục hành chính rất đa dạng nhưng tuỳ theo nội dung có thể chia thành các nhóm:
- Quy định nguyên tắc thực hiện thủ tục hành chính và thẩm quyền của cơ quan chủ trì thực hiện thủ tục;
- Quy định về quyền của các bên tham gia tố tụng;
- Quy định trình tự thực hiện thủ tục cũng như nội dung và hình thức văn bản, công văn phù hợp;
- Quy định về thủ tục thông qua quyết định phù hợp với từng loại thủ tục hành chính, giao tiếp với người thực hiện, việc thực hiện và trình tự khiếu nại, giải quyết khiếu nại đối với các quy định ban hành.
Tùy thuộc vào mục đích của các quy tắc thủ tục, chúng có thể được chia thành:
- Quy định về trình tự giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền của tổ chức, công dân.
- Quy định về trình tự tiến hành các hoạt động trong khuôn khổ quan hệ nội bộ của cơ quan hành chính nhà nước và cơ quan nhà nước khác.
Các quy tắc của thủ tục hành chính là sự đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện các quy tắc nội dung. Trong trường hợp không có các quy định về thủ tục, các quy định về nội dung được áp dụng không thống nhất, dễ dẫn đến tình trạng quản lý lộn xộn. Vì vậy, hướng hoàn thiện pháp luật hành chính ở Việt Nam cần quan tâm đến việc hoàn thiện hệ thống thủ tục hành chính.
Đối với mỗi loại thủ tục hành chính tương ứng với các loại thủ tục hành chính khác nhau. Có ba nhóm thủ tục hành chính: thủ tục nội bộ, thủ tục liên hệ và thủ tục hành chính.
* Thủ tục hành chính nội bộ là những thủ tục tiến hành công việc nội bộ trong cơ quan, công sở nhà nước, trong hệ thống cơ quan nhà nước và bộ máy nhà nước nói chung. Nó bao gồm các thủ tục về mối quan hệ lãnh đạo, kiểm tra của cơ quan nhà nước cấp trên với cấp dưới, sự hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước cùng cấp, cấp và thẩm quyền, mối quan hệ công tác giữa chính quyền cấp tỉnh với các sở, ban, ngành chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp trên. .. Đây là những quy định lỏng lẻo và các thủ tục tại chỗ không được thực thi nghiêm túc. Vì vậy, có thể thấy thủ tục hành chính trong các quan hệ trên còn rườm rà, lộn xộn, thậm chí trái với các nguyên tắc của quan hệ hành chính.
Thủ tục tiến hành công tác quan hệ nội bộ của cơ quan nhà nước, bao gồm:
- Thể thức ban hành quyết định trọng yếu;
- Thủ tục ban hành quyết định điều chỉnh;
- Thể thức ban hành các quyết định nội bộ cụ thể như:
Thủ tục Khen thưởng và Kỷ luật;
Thủ tục thành lập tổ chức, thi tuyển, bổ nhiệm cán bộ, công chức nhà nước.
* Thủ tục hành chính liên quan là thủ tục giải quyết công việc liên quan đến: quyền tự do, quyền và lợi ích hợp pháp, ngăn chặn, ngăn chặn, xử phạt vi phạm hành chính, trưng thu, sung công động sản, bất động sản của công dân, tổ chức của công dân. Các thủ tục hành chính nêu trên có đặc điểm cơ bản là cơ quan hành chính, người đại diện và công chức nhà nước có thẩm quyền thực hiện quyền lực nhà nước bằng việc vận dụng các quy phạm pháp luật để giải quyết những vấn đề, tình huống cụ thể, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân, tổ chức. .
Các thủ tục liên hệ hành chính rất đa dạng.
Trước hết, về quy trình xử lý yêu cầu, kiến nghị của công dân, nhóm công dân. Trong nhiều trường hợp, công dân muốn thực hiện hành vi phải xin phép nhà nước. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết khiếu nại đó thông qua các quyết định hành chính nhà nước riêng lẻ. Và quá trình giải quyết này phải tuân theo một trình tự thủ tục nhất định, mà chúng ta có thể gọi là thủ tục ủy quyền.
Thứ hai, khi công dân, tổ chức vi phạm hành chính hoặc cố ý không chấp hành quyết định hành chính của nhà nước thì cơ quan hành chính có thẩm quyền hoặc cán bộ, công chức có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xử phạt hoặc buộc thi hành quyết định hành chính, hành vi hành chính trực tiếp mang tính mệnh lệnh của nhà nước. . Quá trình đó phải tuân theo các điều kiện và thủ tục do pháp luật quy định. Thủ tục cưỡng chế, xử phạt phải có giới hạn, điều kiện để tránh lạm quyền, xâm phạm quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân.
Thứ ba, trong một số trường hợp do pháp luật quy định, cơ quan hành chính có thẩm quyền có thể thực hiện quyền trưng thu (trong trường hợp khẩn cấp) và trưng thu (trong trường hợp cần ưu tiên vì lợi ích công cộng). Trong trường hợp khẩn cấp, chính phủ cần sự hợp tác của người dân về nhân lực, nhưng cũng có lúc chính phủ gặp phải sự bất hợp tác. Để khắc phục trở ngại này, nhằm thực hiện nghĩa vụ công, pháp luật cho phép chính phủ thực hiện các đặc quyền. Để thực hiện một chính sách, một phương án ưu tiên cho khu công vụ, Nhà nước cần sở hữu bất động sản. Nhưng nếu phương pháp phổ biến là mua lại và cá nhân không muốn bán, thì vì lợi ích chung, luật cho phép chính phủ sử dụng quyền cầm giữ cưỡng chế đối với quyền sở hữu tư nhân đối với bất động sản. Đó là quyền mua. Hai trường hợp trên phải được thực hiện theo trình tự do pháp luật quy định. Đây là thủ tục trưng dụng, trưng dụng.
Các thủ tục trong nhóm này bao gồm:
- Thủ tục xem xét đơn, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo của công dân;
- Thủ tục xử lý yêu cầu của cơ quan nhà nước, tổ chức khác.
- Thủ tục áp dụng biện pháp hành chính ngăn chặn, ngăn chặn.
- Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính;
- Thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính như: Thủ tục giáo dục tại thành phố, quận, huyện; thủ tục giáo dưỡng; Thủ tục nhập học trong một cơ sở giáo dục; Phương thức áp dụng của thực tập hành chính. * Thủ tục hành chính
Giải quyết công việc nội bộ của nhà nước và công việc của công dân, thường được hoàn thành bởi một hoạt động đặc quyền của cơ quan hành chính nhà nước, là việc ra quyết định của cơ quan hành chính nhà nước hoặc thực hiện các hành vi hành chính trực tiếp trên cơ sở các quyết định được đưa ra. Đồng thời, để đưa ra một quyết định đúng đắn, đúng đắn cần có lý do dựa trên bằng chứng, trong đó có nhiều tài liệu, giấy tờ. Mọi hoạt động lưu trữ, xử lý, cung cấp công văn và ra các quyết định dưới hình thức văn bản đều có quan hệ mật thiết với hoạt động văn phòng, tạo thành các thủ tục văn phòng trong hoạt động hành chính. Thủ tục hành chính khá tỉ mỉ, phức tạp, tính chất hành chính phụ thuộc vào từng công việc cần giải quyết. Một số trường hợp yêu cầu ít giấy tờ và được giải quyết nhanh chóng. Nhưng cũng có những công việc đòi hỏi nhiều loại giấy tờ, phải được đăng ký, chứng nhận, công chứng nhà nước một cách cẩn thận và trình tự. Vì vậy, cải cách thủ tục hành chính không có nghĩa là cắt giảm thủ tục giấy tờ, công văn trong mọi trường hợp, mà là đảm bảo đầy đủ giấy tờ làm cơ sở để giải quyết công việc.
Một trong những loại văn bản quan trọng liên quan đến tố tụng hành chính là các quyết định hành chính cá biệt của nhà nước được công bố dưới hình thức văn bản. Văn bản cá biệt của quản lý hành chính nhà nước là hình thức thể hiện quyết định của cơ quan hành chính nhà nước đơn phương trao địa vị pháp lý, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân hoặc cộng đồng bằng cách cho phép, cấm, buộc hành vi, quy định điều kiện, v.v. , và được thi hành ngay lập tức. Vì vậy, về thủ tục ban hành văn bản này cần tuân theo trình tự và điều kiện do pháp luật quy định trong các khâu trình bày, in ấn, phổ biến và lưu trữ bản chính, bản chính.
Nội dung bài viết:
Bình luận