Phân tích quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp ?

Pháp luật được đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội, qua đó uốn nắn hành vi của các chủ thể trong xã hội. quy phạm pháp luật là các quy tắc xử sự chung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng che nhà nước. Bài viết sau đây, hãy cùng Luật ACC tìm hiểu về quy phạm luật hiến pháp.

Luat Hien Phap

Quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp

1. Quy phạm pháp luật hiến pháp là gì?

Quy tắc xử sự được thể hiện thông qua các quyền hay nghĩa vụ pháp lí, tức là việc được làm hay không phải làm, phải làm hay không được làm, được quy định trong nội dung của quy phạm pháp luật. Có thể coi quy phạm pháp luật như là đơn vị nhỏ nhất và cơ bản nhất của pháp luật để tác động, xác lập khuôn mẫu xử sự cho các quan hệ xã hội. Thông qua quy phạm pháp luật, các chủ thể biết phải hành xử như thế nào; nhờ đó pháp luật đạt được mục tiêu điều chỉnh của mình. Mỗi ngành luật đều là tập hợp của các quy phạm pháp luật được đặt ra để tác động lên đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó.

Như vậy, quy phạm luật hiến pháp là các quy tắc xử sự chung do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong phạm vi đối tượng điều chỉnh của ngành Luật hiến pháp, ví dụ quy phạm: “Tơ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm”, “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt” hay “Quốc hội là... cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”?

Cũng giống như các quy phạm pháp luật khác, quy phạm luật hiến pháp không đồng nghĩa với các điều, khoản trong văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp. Một điều, khoản trong vãn bản có thể chứa một hoặc một số quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp, ví dụ Điều 87 Hiến pháp năm 2013 chứa đựng tới 4 quy phạm pháp luật hay khoản 1 Điều 88 Hiến pháp năm 2013 chứa đựng tới 3 quy phạm pháp luật.

2. Đặc trưng của quy phạm pháp luật hiến pháp

So với các quy phạm luật khác, quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp có một số đặc điểm riêng sau đây:

Thứ nhất, các quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp thường là các quy phạm pháp luật nguyên tắc hay còn gọi là quy phạm pháp luật tuyên bố (declaratỉon rule)) Các quy phạm pháp luật nguyên tắc chỉ đưa ra quy tắc xử sự mang tính chất định hướng, khái quát mà không quy định những quyền hay nghĩa vụ cụ thể để các chủ thể có thể căn cứ vào đó thực hiện các hành vi cụ thể của mình. Trong khi đó, quy phạm pháp luật của các ngành luật khác chủ yếu chứa đựng các quyền và nghĩa vụ pháp lí cụ thể. Trong một chỉnh thể thống nhất của hệ thống pháp luật, các quy phạm pháp luật mang tính nguyên tắc của Luật hiến pháp đóng vai trò là cơ sở ban hành các quy phạm pháp luật cụ thể của các ngành luật khác. Ví dụ, với quy định “À/ọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định” được quy định tại Điều 47 Hiến pháp năm 2013, người dân sẽ không thể biết cụ thể mình sẽ phải nộp các loại thuế gì, trong trường hợp nào và với mức thuế suất là bao nhiêu... Quy phạm này chỉ đưa ra một quy tắc xử sự mang tính nguyên tắc về nghĩa vụ nộp thuế của mọi người. Căn cứ vào đó, pháp luật về thuế quy định cụ thể các loại thuế, mức thuế suất và che tài xử lí vi phạm về thuế.

Quy phạm luật hiến pháp có đặc điểm này là vì, như đã đề cập, đối tượng điều chỉnh của ngành Luật hiến pháp là các quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng nhất, đồng nghĩa với việc đây là các quan hệ mang tính chất khái quát và là nền tảng để hình thành các mối quan hệ cụ thể trong xã hội. Vì vậy, quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp cũng chỉ có thể điều chỉnh ở tầm nguyên tắc, khái quát và do đó mang tính chất tuyên bố hơn là quy định cụ thể.

Tuy nhiên, chỉ phần lớn mà không phải tất cả các quy phạm luật hiến pháp đều mang tính nguyên tắc. Trong phạm vi đối tượng điều chỉnh của ngành Luật hiến pháp cũng có những quan hệ xã hội cụ thể mà quy phạm pháp luật tương ứng cùa ngành luật hiến pháp có thể điều chỉnh bằng cách quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lí cụ thể. Điều này thể hiện rõ nét trong lĩnh vực bầu cử, ví dụ quy phạm: “Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội”...

Thứ hai, phần lớn các quy phạm pháp luật của ngành luật hiến pháp thường không có đủ cơ cấu ba bộ phận.

Ở góc độ lí luận phổ quát, mỗi quy phạm pháp luật thường có cơ cấu ba bộ phận: giả định, quy định và chế tài. Có thể hiểu một cách ngan gọn: phần giả định chỉ ra bối cảnh của quan hệ xã hội mà các bên chủ thể tham gia phải xử sự theo quy định của pháp luật; phần quy định chỉ ra nội dung các bên phải xử sự trong mối quan hệ xã hội; phần chế tài đưa ra câc hậu quả pháp lí bất lợi nếu các bên chủ thể vi phạm nội dung quy định mà mình phải tuân thủ. Sự họp thành của ba bộ phận này tạo nên một quy phạm pháp luật tiêu chuẩn, bởi vì nó vừa chỉ ra các bên phải xử sự như thế nào, vừa thể hiện được biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Nói cách khác, với cơ cấu ba bộ phận quy phạm pháp luật bảo đảm cho pháp luật có được khả năng điều chỉnh, uốn nắn các quan hệ xã hội.

Không giống với các quy phạm pháp luật tiêu chuẩn, quy phạm pháp luật của ngành Luật hiến pháp thường chỉ có hai bộ phận là giả định và quy định. Phần lớn các quy phạm pháp luật của ngành luật hiến pháp thường chỉ có phần chỉ ra bối cảnh các bên cần xử sự theo pháp luật và nội dung xử sự mà các bên phải tuân thủ.

3. Phân biệt quy phạm hành chính với quy phạm luật hiến pháp

QPPL hành chính là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.

Quy phạm luật hiến pháp là những quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất gắn với việc xác định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chính sách văn hóa – xã hội, quốc phòng và an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Như vậy, qua hai khái niệm trên thì ta có thể thấy được sự khác biệt giữa QPPL hiến pháp với QPPL hành chính. Và nó được thể hiện qua các yếu tố sau.

3.1. Đối tượng điều chỉnh

Đối tượng điều chỉnh của Quy phạm luật hiến pháp là những quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng nhất gắn liền với việc các định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, an ninh quốc phòng ... tạo thành nền tảng của chế độ nhà nước và xã hội, có liên quan đến việc thực hiện quyền lực nhà nước. Còn QPPL hành chính chỉ điều chỉnh những mối quan hệ quản lý hình thành trong quá trình hoạt động chấp hành - điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước. QPPL hành chính đi sâu, tập trung điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý hành chính nhà nước, còn QPPL Hiến pháp điều chỉnh bao quát các mối quan hệ cơ bản nhất nảy sinh trong đời sống xã hội (Ví dụ : những quy định của Hiến pháp về quyền và nghĩa vụ của công dân). Như vậy, so với QPPL Hành chính thì QPPL Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh rộng hơn.

3.2. Chủ thể ban hành

Quy phạm luật hiến pháp chỉ do Quốc hội - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành (Điều 83 Hiến pháp 1992, bổ sung và sửa đổi năm 2001 quy định: Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp), như vậy có thể thấy QPPL hiến pháp chỉ do một chủ thể duy nhất là Quốc hội ban hành. QPPL hành chính chủ yếu là do cơ hành chính Nhà nước ban hành, ngoài ra trong trường hợp cần thiết thì cơ quan quyền lực cũng có quyền ban hành. Như vậy ban hành các QPPL hành chính có thể do nhiều chủ thể khác nhau ban hành.

Qua những nội dung trên, chúng ta đã tìm hiểu về quy phạm luật hiến pháp. Để biết thêm thông tin chi tiết hoặc muốn sử dụng dịch vụ tại Luật ACC; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline của Công ty Luật ACC để được đội ngũ chuyên viên hỗ trợ kịp thời. Công ty Luật ACC - Đồng hành pháp lý cùng bạn.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo