Quốc hội Việt Nam qua Hiến pháp Việt Nam 1946 [Mới 2022]

Hiến pháp là một hệ thống cao nhất của pháp luật quy định những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập thủ tục, quyền hạn, trách nhiệm của một chính quyền. Nhiều hiến pháp cũng bảo đảm các quyền nhất định của nhân dân.

Ghep
Quốc hội Việt Nam qua Hiến pháp Việt Nam 1946 [Mới 2022]

1. Sự ra đời của Hiến pháp Việt Nam 1946

75 năm trước, ngày 9/11/1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Dù đã 3/4 thế kỷ trôi qua, nhưng tư tưởng vượt thời đại của bản Hiến pháp này vẫn vẹn nguyên những giá trị sâu sắc, đặc biệt là tư tưởng về quyền con người, quyền công dân...

Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của chính quyền nhân dân là tổng tuyển cử tự do và soạn thảo hiến pháp. Ngày 20/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 34-SL thành lập Ủy ban Dự thảo Hiến pháp, gồm 7 thành viên: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy (cựu hoàng Bảo Đại), Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh).

Ngày 2/3/1946, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa I đã bầu Ban Dự thảo Hiến pháp (Tiểu ban Hiến pháp) chịu trách nghiên cứu dự thảo hiến pháp, gồm 11 thành viên. Ngày 29/10/1946, Tiểu ban được mở rộng thêm 10 đại biểu đại diện cho các nhóm, các vùng và đồng bào thiểu số để tu chỉnh dự thảo và trình ra Quốc hội ngày 2/11/1946 để Quốc hội thảo luận, sửa chữa và thông qua.

Bản Hiến pháp được Quốc hội thông qua vào ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ 2, với 240 phiếu tán thành trên tổng số 242 phiếu, gồm 7 chương, 70 điều.

Lời nói đầu khẳng định 3 nguyên tắc cơ bản: “Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo”; “Đảm bảo các quyền tự do dân chủ”; “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”.

2. Quốc hội Việt Nam thông qua Hiến pháp Việt Nam 1946

Tại kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội khóa I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946. Và ngày 31/12/1959, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I đã nhất trí thông qua bản Hiến pháp.  Hiến pháp năm 1959 đã phát huy tinh thần của Hiến pháp năm 1946, đồng thời phản ánh đầy đủ tình hình thực tế của chế độ ta do cuộc cách mạng phản đế, phản phong thắng lợi đã mang lại, phản ánh đúng đắn con đường đang tiến lên của dân tộc. Đó là khẳng định tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân, các quyền tự do dân chủ được bảo đảm. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do Nhân dân bầu ra. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan nhà nước khác thực hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ…Từ Hiến pháp năm 1959, bắt đầu một quan niệm mới về vị trí, tính chất của Chính phủ so với Hiến pháp 1946, bằng việc quy định “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội”. Cũng có ý kiến cho rằng, cách quy định như vậy là chịu ảnh hưởng của mô hình Xô viết. Điều này cũng chỉ là một phần, có lẽ cái sâu xa của nó là chịu ảnh hưởng của tư tưởng về chế độ đại nghị - chế độ đề cao vai trò của cơ quan đại diện quyền lực nhà nước trong mối tương quan với Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước.  Và cái sâu xa của nó lại bắt nguồn từ quan niệm hình thành rất sớm trong lịch sử nhận thức của ở các nước XHCN là: với quan điểm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân thiết lập nên cơ quan đại diện của mình và trao cho cơ quan đó thực hiện quyền lực của nhân dân, vì vậy, cơ quan này trực tiếp nhận quyền lực từ nhân dân, còn các cơ quan khác do cơ quan đại diện quyền lực nhà nước thành lập nên chỉ là những cơ quan “phái sinh”, do đó các cơ quan phái sinh là những cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước.  

Chế độ nghị viện lần đầu tiên được xác lập tại Việt Nam trong bản Hiến pháp đầu tiên- Hiến pháp năm 1946. “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Điều 22).

Trên phương diện thẩm quyền, chức năng của Nghị viện, Hiến pháp năm 1946 không quy định một cách chi tiết như các Hiến pháp Việt Nam sau này.

Điều 23, Hiến pháp năm 1946 xác định một cách tổng quát thẩm quyền của Nghị viện nhân dân: “Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài”.

Nhiệm kỳ của Nghị viện nhân dân, theo quy định của Hiến pháp năm 1946 tương đối ngắn là 3 năm.

Cơ cấu tổ chức của Nghị viện nhân dân, theo quy định của Hiến pháp năm 1946 cũng không phức tạp như chế độ nghị viện của các quốc gia dân chủ thời kỳ đó.

Nghị viện có một ban duy nhất: Ban Thường vụ bao gồm một Nghị trưởng, 12 Uỷ viên chính thức, 3 Uỷ viên dự khuyết. Ban Thường vụ là cơ quan thường xuyên của Nghị viện nhân dân với quyền hạn:

  1. a) Biểu quyết những dự án sắc luật của Chính phủ, những sắc luật đó phải đem trình Nghị viện vào phiên họp gần nhất để Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ.
  2. b) Triệu tập Nghị viên nhân dân.
  3. c) Kiểm soát và phê bình Chính phủ.

Điều đặc biệt cần nhấn mạnh là Hiến pháp năm 1946 xác định hình thức hoạt động rất dân chủ của Nghị viện nhân dân: “Nghị viện họp công khai, công chúng được nghe” (Điều 30). Quy định này thể hiện sâu sắc bản chất của Nhà nước Việt Nam với tính cách là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, được thể hiện cụ thể qua hình thức hoạt động của chính Nghị viện nhân dân. Tính chất dân chủ của chế định Nghị viện nhân dân trong Hiến pháp năm 1946 còn thể hiện trong các quy định “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa nhân dân phán quyết, nếu hai phần ba tổng số Nghị viện đồng ý, Nghị viện có thể tự giải tán. Ban Thường vụ thay mặt Nghị viện tuyên bố tự giải tán” (Điều 33).

Chế định Nghị viện nhân dân được quy định trong Hiến pháp năm 1946 thể hiện một hình thức dân chủ mới của chính thể cộng hoà lần đầu tiên được thiết lập ở một đất nước nửa phong kiến nửa thuộc địa Việt Nam. Bản chất, tổ chức và phương thức hoạt động của Nghị viện nhân dân là phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam sau Tổng tuyển cử  năm 1946. Với sự tham gia của nhiều lực lượng chính trị trong một cơ chế dân chủ nhân dân.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo