Giám sát hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân là một trong những việc làm cần thiết để đảm bảo tính minh bạch, công khai và hiệu quả thực hiện công tác điều hành, quản lý. Các cuộc giám sát chuyên đề được thực hiện theo kế hoạch, tạo sự chủ động để Thường trực Ủy ban, Chính phủ và các cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia vào hoạt động giám sát. Trong thực hiện, sự hài hòa, phối hợp giữa các ban chiếm ưu thế, do đó cần hạn chế chồng chéo, trùng lặp về đối tượng, nội dung và thời gian thực hiện. Trong bài viết này, Luật ACC sẽ cung cấp một số thông tin về quyền hạn giám sát tối cao của Quốc hội.

Căn cứ pháp lý
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015
1. Giám sát của Quốc hội là gì ?
Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
2. Giám sát tối cao là gì ?
Căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015 quy định như sau:
Giám sát tối cao là việc Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý. Giám sát tối cao được thực hiện tại kỳ họp Quốc hội.
Như vậy việc giám sát tối cao là việc Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý.Giám sát tối cao được thực hiện tại kỳ họp Quốc hội.
3. Các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội.
Căn cứ theo Điều 11 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015 quy định các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội.
Theo đó trong kỳ họp Quốc hội, việc giám sát tối cao được thực hiện thông qua các hoạt động sau:
- Xem xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, cơ quan khác do Quốc hội thành lập và các báo cáo khác quy định tại Điều 13 của Luật này.
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật quy định tại điểm a khoản 1 Điều 4 của Luật này có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Xem xét việc trả lời chất vấn của những người bị chất vấn quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 4 của Luật này.
- Xem xét báo cáo giám sát chuyên đề.
- Xem xét báo cáo của Ủy ban lâm thời do Quốc hội thành lập để điều tra về một vấn đề nhất định.
- Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
- Xem xét báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kiến nghị giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
4. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân thì trong hoạt động giám sát của Quốc hội sẽ bao gồm giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội.
Theo đó, Quốc hội có thể thực hiện quyền giám sát tối cao của mình bằng cách giao một phần quyền hạn giám sát của mình cho: một số cơ quan nhà nước bao gồm Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao(VKSNDTC, Tòa án nhân dân tối cao; bộ phận cấu thành thuộc hệ thống Quốc hội như: UBTVQH, HĐDT, các Uỷ ban, Đại biểu Quốc hội….
Quyền hạn giám sát của những chủ thể trên đều xuất phát từ quyền chủ thể duy nhất của Quốc hội, do Quốc hội giao. Hoặc nói cách khác, quyền hạn của những chủ thể này trong hoạt động giám sát có tính chất phái sinh từ quyền giám sát của Quốc hội nên quyền hạn giám sát của những cơ quan này không thể là tối cao.
Tính tối cao của hoạt động giám sát của Quốc hội thể hiện ở một số dấu hiệu sau:
+ Hoạt động giám sát của Quốc hội không phân chia theo lĩnh vực mà mang tính bao trùm trong mọi lĩnh vực, mọi đối tượng có liên quan đến Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Bởi lẽ, hoạt động giám sát của các cơ quan nhà nước, các bộ phận cấu thành của Quốc hội đều bị giới hạn trong những phạm vi xác định.
+ Bản chất của hoạt động của một số cơ quan nhà nước, bộ phận cấu thành của Quốc hội được Quốc hội giao một số quyền giám sát, nhưng thực tế thì những cơ quan, bộ phận đó lại là đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội còn Quốc hội trong hoạt động của mình thì không chịu sự giám sát của bất kỳ cơ quan, tổ chức cá nhân nào ngoài sự giám sát của nhân dân.
+ Chính vì mang tính tối cao nên Quốc hội có quyền áp dụng những biện pháp chế tài cao nhất như: huỷ bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hộ, Chính phủ, Thủ tướng, Việt kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong trường hợp văn bản trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
5. Hình thức giám sát tối cao của Quốc hội.
Theo Hiến pháp cũng như Luật tổ chức Quốc hội hiện hành thì quyền này được thực hiện bằng các phương thức sau đây:
– Quốc hội tổ chức xem xét các báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao để thực hiện nội dung giám sát việc tổ chức và thực hiện Hiến pháp, luật, và nghị quyết của Quốc hội trong các hoạt động thực tiễn của các đối tượng thuộc quyền giám sát tối cao.
Việc xem xét, thảo luận các báo cáo được chi ra thành hai kỳ hoặc là hàng năm hoặc sáu tháng tại các kỳ họp cuối năm hay giữa năm được tiến hành theo một trình tự chặt chẽ theo quy định, trong đó phải có thẩm tra báo cáo, phản biện, thảo luận, tranh luận của các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội đối với các đối tượng chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội.
– Quốc hội xem xét các đề nghị của các cơ quan của Quốc hội, của đại biểu Quốc hội, của các cơ quan, tổ chức và cá nhân về các văn bản quy phạm pháp luật ban hành của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tính hợp pháp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Đây chính là phương thức để thực hiện nội dung giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật của các đối tượng thuộc quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Tuy nhiên, để phương thức giám sát này được thực hiện ở các kỳ họp của Quốc hội trước tiên hết các cơ quan của Quốc hội từ Ủy ban thường vụ Quốc hội đến Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban và từng đại biểu Quốc hội giữa hai kỳ họp phải thường xuyên thực hiện quyền giám sát của mình đối với các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền để xem xét có sai trái hay không rồi đưa ra các đề nghị kịp thời tại kỳ họp của Quốc hội.
– Xem xét chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp.
Trên đây là nội dung bài viết của Luật ACC về “Giám sát tối cao là gì và các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội”. Bài viết trên là những thông tin cần thiết mà quý độc giả có thể áp dụng vào đời sống thực tiễn. Trong thời gian tham khảo nếu có những vướng mắc hay thông tin nào cần chia sẻ hãy chủ động liên hệ và trao đổi cùng luật sư để được hỗ trợ đưa ra phương án giải quyết cho những vướng mắc pháp lý mà khách hàng đang mắc phải.
Nội dung bài viết:
Bình luận