1. Phương pháp thống kê hình sự
Là phương pháp thu thập thông tin tội phạm bằng kỹ thuật và quy định về thống kê. Thống kê là phương pháp nghiên cứu quan trọng được nhiều ngành khoa học sử dụng, trong đó có các khoa học xã hội như xã hội học, kinh tế học,.. Trong chuyên môn tội phạm học đối tượng thống kê chủ yếu là tội phạm, người phạm tội, thiệt hại… (gọi chung là thống kê hình sự). Đối với tội phạm học, quá trình nghiên cứu tình hình tội phạm cần dựa vào các số liệu thống kê. Hai học giả Adophe Quételet (1796 – 1874), nhà toán học Bỉ và André Michen Guerry (1802 – 1866), luật sư Pháp, là hai người tiên phong sử dụng phương pháp thống kê nghiên cứu sự phụ thuộc giữa con số thống kê tội phạm với các nhân tố như nghèo khổ, lứa tuổi, giới tính, khí hậu. Từ đó kết luận rằng xã hội chứ không phải quyết định cá nhân của người phạm tội là nguyên nhân của hành vi phạm tội”. Ở Việt Nam, việc thống kế hình sự được tiến hành theo quy định pháp luật, do các cơ quan chức năng (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án) thực hiện hoặc thống kê theo các mục đích riêng của các nhà nghiên cứu. Ở góc độ khoa học, phương pháp thống kê hình sự giải quyết một số nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản như:
Thứ nhất, mô tả tình hình tội phạm bằng con số thống kê. Số liệu thống kê phản ánh phần lớn số liệu tội phạm và người phạm tội đã bị phát hiện, xử lí (số tuyệt đối). Do vậy, thông qua phương pháp thống kê có thể tiếp cận một phần bức tranh về tình hình tội phạm (chỉ mô tả được phần tội phạm hiện). Việc mô tả tình hình tội phạm bằng số liệu thống kê còn được thể hiện qua số con tương đối trong các trường hợp sau:
– Xác định hệ số (cơ số) tình hình tội phạm khi lấy tổng số tội phạm được thống kê chia cho tổng số dân rồi nhân với 10 000 hoặc 100 000.
– Xác định tỷ trọng tội phạm hoặc loại tội phạm. Đó là tương quan giữa tội phạm hoặc loại tội phạm trên tổng số tội phạm được thống kê.
– Xác định chỉ số trung bình, là lấy tổng số tội phạm được thống kê chia cho số các trường hợp. Ví dụ, lấy tổng số tội phạm được thống kê trong 5 năm chia cho 5 để biết số tội phạm trung bình của một năm.
Hình minh họa. Các phương pháp nghiên cứu của tội phạm học
Thứ hai, giải thích về tình hình tội phạm. So sánh số liệu thống kê tình hình tội phạm với các số liệu thống kê các hiện tượng xã hội khác (dân số, việc làm, thu nhập, học vấn,…), từ đó cho thấy mối quan hệ và sự phụ thuộc giữa tình hình tội phạm với các hiện xã hội, có thể là nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm.
Thứ ba, dự báo tội phạm. Phương pháp thống kê cũng được sử dụng để dự báo tội phạm. Nếu số liệu thống kê tội phạm đầy đủ, trong một giai đoạn dài cần thiết sẽ phản ánh xu hướng của tình hình tội phạm trong tương lai. Nếu chọn một thời điểm tương ứng với con số cụ thể được thống kê làm mốc (quy ước 100%), những thời điểm tiếp theo có thể suy ra tỷ lệ trên hoặc dưới 100% (nếu so sánh với thời điểm được chọn làm mốc), có nghĩa là diễn biến tội phạm có xu hướng tăng hay giảm.
Thứ tư, đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội phạm và tổ chức hoạt động phòng ngừa tội phạm. Thông qua số liệu thống kê hình sự và những thay đổi của nó có thể đánh giá mức độ tăng, giảm tội phạm và suy ra hiệu quả phòng ngừa tội phạm. Cũng từ những số liệu thống kê định ra các hướng phòng ngừa tội phạm (loại tội phạm nào? Xảy ra ở đâu?,…).
Các bước thực hiện phương pháp thống kê:
Bước thứ nhất, thu thập số liệu thống kê. Số liệu thống kê tội phạm hiện nay chủ yếu được thu thập từ kết quả thống kế của các cơ quan chức năng như: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án. Mục đích của thống kê hình sự, ngoài việc đánh giá chính xác, khách quan tình hình vi phạm pháp luật hình sự, tội phạm, còn nhằm từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu về vi phạm pháp luật hình sự, tội phạm và kết quả giải quyết các vụ án hình sự phục vụ công tác nghiên cứu, đánh giá tổng quát về tình hình tội phạm”.
Bước thứ hai, tổng hợp và phân loại số liệu thống kê. Số liệu thống kê sau khi đã thu thập, nhà nghiên cứu tiến hành tổng hợp (cộng, nhóm, xử lý các số liệu theo thời gian, địa bàn,…) và phân loại theo mục đích nghiên cứu (hướng đến tìm hiểu loại tội phạm, mức hình phạt, nhân thân,…).
Bước thứ ba, phân tích, đánh giá số liệu thống kê. Đây là bước mà nhà nghiên cứu có thể đưa ra các kết luận về tình hình tội phạm, nguyên nhân của tội phạm, xu hướng của tội phạm trên cơ sở số liệu thống kê đã được thu thập, xử lý.
2. Phương pháp nghiên cứu chọn lọc
Là phương pháp nghiên cứu toàn bộ hiện tượng thông qua một bộ phận điển hình của nó. Kết quả nghiên cứu bộ phận được sử dụng để đánh giá chung cho toàn bộ hiện tượng cần nghiên cứu. Phương pháp này còn được gọi là phương pháp điều tra điển hình. Sở dĩ phương pháp này thường được sử dụng trong tội phạm học là do tính chất rộng lớn của đối tượng nghiên cứu (có khi lên đến hàng trăm nghìn trường hợp), hơn nữa không phải nội dung nghiên cứu nào cũng được thống kê, do đó phải sử dụng thông tin từ nghiên cứu chọn lọc. Ví dụ, phân tích 2 175 vụ cướp, cưỡng đoạt cho thấy: ban ngày xảy ra 370 vụ (17%), từ 19h – 22h: 1320 vụ (60,7%), 23h – 5h: 485 vụ (22,3%). Kết quả khảo sát này (của 2 175 vụ) phản ánh đặc điểm chung về thời gian xảy ra án cướp, cưỡng đoạt tài sản thay vì phải khảo sát tất cả những vụ án đã xảy ra trên thực tế. Ưu điểm của phương pháp là tiết kiệm thời gian, công sức nghiên cứu và có thể phản ánh gần đúng sự thật. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của nó là khả năng sai số do chỉ nghiên cứu một bộ phận của toàn thể đối tượng cần nghiên cứu. Nếu chọn mẫu nghiên cứu với con số lớn và tính điển hình cao sẽ cho sai số thấp hơn và ngược lại. Tội phạm học có đưa ra bảng quy tắc sai số để giúp cho quá trình chọn số lượng mẫu nghiên cứu và đánh giá mức độ tin cậy của kết quả nghiên cứu bằng phương pháp nghiên cứu chọn lọc”.
3. Các phương pháp nghiên cứu xã hội học
3.1. Phương pháp phiếu điều tra
Là phương pháp thu thập thông tin bằng phiếu điều tra, có ghi sẵn nội dung các câu hỏi. Đây là phương pháp nghiên cứu xã hội học thường được tội phạm học sử dụng. Không phải thông tin nào cũng có thể thu thập bằng phương pháp thống kê, như ý thức pháp luật, lí do phạm tội, tình trạng và lý do ẩn của tội phạm, dư luận xã hội về tình hình tội phạm và hiệu quả phòng ngừa tội phạm,… Tuy nhiên, đây lại là những nguồn thông tin mà phương pháp pháp phiếu điều tra có thể thu thập được.
Yêu cầu quan trọng nhất của phương pháp này là kỹ thuật đặt câu hỏi trong bảng câu hỏi (phiếu) để thăm dò ý kiến của người được hỏi. Các câu hỏi phải dễ hiểu, đúng trọng tâm nghiên cứu, hướng dẫn tâm lý của người được hỏi một cách tự nhiên khi lần lượt trả lời các câu hỏi. Kỹ thuật thiết kế câu hỏi gồm các dạng: câu hỏi đóng (một phương án trả lời), câu hỏi mở (nhiều phương án trả lời, tự do trình bày quan điểm), câu hỏi kết hợp đóng – mở. Vấn đề quan trọng thứ hai là chọn mẫu để điều tra sao cho kết quả thu thập được có tính đại diện, đáng tin cậy.
Hạn chế của phương pháp này là người hỏi không kiểm soát được thái độ của người trả lời phiếu điều tra (ví dụ, người trả lời không hiểu vấn đề, không nhiệt tình trả lời hoặc trả lời thiếu trách nhiệm, trả lời thay,…).
Phiếu điều tra là một dạng phương pháp nghiên cứu chọn lọc, do đó số lượng mẫu điều tra càng lớn thì xác suất đúng càng cao.
3.2. Phương pháp phỏng vấn (đối thoại)
Là phương pháp thu thập thông tin bằng cách hỏi – đáp trực tiếp. Nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra cho phương pháp phỏng vấn cũng giống như phương pháp phiếu điều tra, nhưng chỉ khác phương thức thực hiện: hỏi – trả lời trực tiếp, thay vì qua phiếu điều tra.
Ưu điểm của phương pháp này là người nghiên cứu kiểm soát được thái độ của người trả lời. Tuy nhiên, tùy vào nội dung, mục đích và đối tượng phỏng vấn để lựa chọn hình thức phỏng vấn sao cho phù hợp với diễn biến tâm lý của người được hỏi.
Để có kết quả phỏng vấn tốt, phù hợp yêu cầu nghiên cứu, cần chuẩn bị trước nội dung các câu hỏi.
3.3. Phương pháp quan sát
Là phương pháp thu thập thông tin qua quan sát bằng mắt. Quan sát cũng có thể thu thập thông tin bề ngoài của đối tượng cần quan sát, từ đó đoán được diễn biến tâm lý bên trong.
Nhiệm vụ của phương pháp này trong Tội phạm học là nghiên cứu tình trạng sức khỏe, hình thái, tâm lý, thái độ của người phạm tội.
– Các loại quan sát: quan sát tự nhiên, quan sát trong môi trường nhân tạo, tham gia vào hoạt động quan sát.
Yêu cầu của phương pháp: quan sát phải có chủ đích – có ghi chép các kết quả quan sát, quan sát không xâm phạm vào tự do riêng tư của người bị quan sát.
3.4. Phương pháp thực nghiệm
Là phương pháp nghiên cứu bằng cách tạo ra hoặc thay đổi các điều kiện để kiểm tra kết quả nghiên cứu. Trong Tội phạm học sử dụng chủ yếu là phương pháp thực nghiệm xã hội như thay đổi điều kiện giáo dục, thay đổi điều kiện, phương tiện phát hiện tội phạm,… để khẳng định có hay không sự phụ thuộc giữa đối tượng nghiên cứu và điều kiện hoàn cảnh đưa ra thực nghiệm.
Nhiệm vụ của phương pháp này chủ yếu kiểm tra các nguyên nhân và điều kiện phạm tội liên quan đến hoàn cảnh giáo dục, khả năng phát hiện tội phạm, hiệu quả áp dụng các biện pháp cải tạo để phòng ngừa tội phạm.
Vấn đề cần lưu ý của phương pháp này là không được làm xấu hơn tình trạng của đối tượng thực nghiệm.
3.5. Phương pháp chuyên gia
Là phương pháp tham khảo ý kiến các chuyên gia có kinh nghiệm trong nghiên cứu và hoạt động thực tiễn về lĩnh vực cần nghiên cứu.
Nếu như thế mạnh của phương pháp thống kê là có khả năng định lượng số tội phạm, người phạm tội với con số lớn thì thế mạnh của phương pháp chuyên gia là có khả năng làm sáng tỏ mặt định tính của tình hình tội phạm một cách sâu sắc.
Phương pháp chuyên gia có thể được sử dụng hiệu quả trong điều kiện thiếu thông tin tội phạm, điều kiện kinh tế xã hội thay đổi nhanh chóng.
Phương pháp chuyên gia được thực hiện theo các bước: Thứ nhất, nhóm nghiên cứu thu thập, cung cấp thông tin, đề nghị yêu cầu đánh giá; thứ hai, thành lập nhóm chuyên gia và tổ chức cho chuyên gia làm việc, đưa ra ý kiến; thứ ba, nhóm nghiên cứu tổng hợp, xử lý ý kiến các chuyên gia để đưa ra kết quả nghiên cứu.
Hình thức thực hiện: có thể tổ chức cho các chuyên gia làm việc cá nhân hoặc làm việc tập thể (hội thảo, tọa đàm).
3.6. Phương pháp so sánh các nguồn tài liệu
Là phương pháp so sánh các nguồn tài liệu ở các lĩnh vực có liên quan đến tình hình tội phạm để tìm mối quan hệ và sự phụ thuộc giữa tình hình tội phạm với các hiện tượng xã hội khác. Ví dụ, tài liệu phát hiện xử lý buôn lậu của hải quan, xử lý hàng giả của quản lý thị trường, tài liệu chi trả bảo hiểm do tội phạm gây ra của cơ quan bảo hiểm, tài liệu của các cơ quan y tế về điều trị thương tật, tai nạn do tội phạm gây ra,…
– Các phương pháp toán học, máy tính không trực tiếp thu thập thông tin từ đối tượng nghiên cứu mà thường hỗ trợ quá trình xử lý thông tin, tài liệu được thu thập từ những phương pháp khác, như xử lý số liệu thống kê, phiếu điều tra...
4. Câu hỏi thường gặp
Tâm lí tội phạm là gì?
Mỗi tội phạm đều có trạng thái tâm lí riêng, do đó trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, các cơ quan bảo vệ pháp luật đều phải nghiên cứu, phân tích, nắm chắc tâm lí tội phạm; về ý đồ phạm tội, cách thức, hành vi và phương pháp thực hiện tội phạm.
Để nắm chắc tâm lí của tội phạm cũng như để có phương pháp, biện pháp thích hợp phục vụ yêu cầu đấu tranh, khai thác, cũng như trong quá trình cảm hoá giáo dục đối tượng, các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung và trong lực lượng công an nói riêng vấn đề “tâm lí tội phạm" đang được nâng lên thành một bộ môn trong ngành tâm lí học (gọi là tâm lí học tội phạm). Bộ môn này nghiên cứu các quy luật tâm lí có liên quan đến việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm; sự hình thành tâm lí tội phạm, ý đồ phạm tội và những kiểu (mẫu hình) hành vi phạm tội, nhân cách tội phạm và nhóm tội phạm nhằm mục đích góp phần nghiên cứu các biện pháp phòng ngừa xã hội, điều tra khám phá tội phạm cũng như giáo dục, cải tạo những người phạm tội.
Các yếu tố của tội phạm
Tội phạm có thể được nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Đó là nghiên cứu về cấu trúc của tội phạm và về sự phản ánh tội phạm trong luật hình sự để trả lời các câu hỏi: Tội phạm được cấu thành bởi những yếu tố nào? Tội phạm được phản ánh trong luật hình sự như thế nào?
Nghiên cứu về mặt cấu trúc, tội phạm có đặc điểm chung là đều được hợp thành bởi những yếu tố nhất định, tồn tại không tách rời nhau nhưng có thể cho phép nghiên cứu độc lập với nhau. Những yếu tố đó, theo khoa học luật hình sự Việt Nam là chủ thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm và khách thể của tội phạm. Như vậy, tội phạm được hợp thành bởi 4 yếu tố. Bất cứ tội phạm nào, không phụ thuộc vào loại tội phạm cũng như mức độ nghiêm trọng đều được cấu thành từ 4 yếu tố đó. Trước hết, muốn có tội phạm thì phải có chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Đó là yếu tố chủ thể của tội phạm. Hành vi phạm tội do chủ thể của tội phạm thực hiện luôn là thể thống nhất giữa biểu hiện bên ngoài và diễn biến tâm lí bên trong của chủ thể. Đó là yếu tố mặt khách quan và yếu tố mặt chủ quan của tội phạm. Hành vi phạm tội do chủ thể của tội phạm thực hiện luôn có đối tượng hướng tới để gây thiệt hại. Đó là yếu tố khách thể của tội phạm. Dưới đây là nội dung khái quát về 4 yếu tố của tội phạm:
XEM THÊM:>>>Phương pháp nghiên cứu của tội phạm học? Ý nghĩa?
Trên đây là các phương pháp quan sát trong tội phạm học. Cảm ơn bạn đọc đã theo dõi bai viết.
Nội dung bài viết:
Bình luận