Để điều chỉnh các hành vi giữa người với người pháp luật nước ta quy định cụ thể các văn bản luật và dưới luật. Tuy nhiên, mặc dù việc bàn hành được công khai tại các văn bản luật hoặc đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng hầu hết mọi người vẫn còn nhiều vướng mắc, tranh chấp phát sinh liên quan đến pháp luật giữa các cá nhân và pháp nhân. Vậy Pháp nhân và cá nhân khác nhau về năng lực pháp luật dân sự? Hãy cùng ACC tìm hiểu qua bài viết dưới đây!

1. Cá nhân là gì?
Với khái niệm về cá nhân là gì, pháp luật nước ta chưa có một quy định cụ thể nào khái quát cho danh từ này. Tuy nhiên, theo cách hiểu thông thường chúng ta có thể hiểu được cá nhân là những chủ thể, những con người đơn lẻ được sinh ra và lớn lên đã mang các quyền và nghĩa vụ phù hợp với từng độ tuổi và năng lực của bản thân. Cá nhân là một chủ thể quan trọng, một chủ thể phổ biến của các giao dịch dân sự.
Mỗi cá nhân từ khi sinh ra đã có các quyền lợi hợp pháp và được pháp luật tôn trọng và bảo vệ về mọi mặt.
2. Khái quát về pháp nhân- chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự?
Ở Việt Nam, pháp nhân là một chế định du nhập. Điều này được chứng minh rằng, trong luật cổ Việt Nam không có khái niệm về pháp nhân, cho đến thời kỳ Pháp thuộc và thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chế định pháp nhân có được nhắc đến nhưng ít và đều phục vụ cho chủ trương chính sách quản lý và ký kết hợp đồng kinh tế, tức là với mục đích rất hẹp. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, xét dưới góc độ điều chỉnh pháp luật, thời kỳ này không có sự tồn tại pháp nhân theo đúng nghĩa của nó khi tham gia các quan hệ dân sự – kinh tế. Ngày nay, pháp nhân đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và trở thành chủ thể cơ bản trong các quan hệ pháp luật, được pháp luật dân sự, thương mại ghi nhận và bảo vệ.
Trên cơ sở quy định của pháp luật, cũng như tham khảo các tài liệu, chúng tôi đưa ra khái niệm về pháp nhân như sau: Pháp nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật.
Bộ luật dân sự đã quy định các điều kiện để công nhân một tổ chức là pháp nhân, theo đó tại Khoản 1, Điều 74 liệt kê 4 điều kiện như sau:
Thứ nhất, được thành lập một cách hợp pháp. Một pháp nhân được thành lập một cách hợp pháp khi pháp nhân được pháp luật cho phép thành lập hoặc được pháp luật thừa nhận một cách hợp lý. Trong điều kiện này, pháp nhân phải được thành lập theo đúng quy định của Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp, theo đúng tinh thần “Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan”. Pháp nhân được thành lập theo sáng kiến của cá nhân, pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ hai, pháp nhân phải có cơ cấu tổ chức. Điều này phải đảm bảo rằng, pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân. Việc có cơ quan điều hành nhằm dẫn dắt, lãnh đạo, pháp nhân hoạt động theo đúng mục đích của chủ thể.
Thứ ba, có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Cũng giống như các chủ thể khác, để đảm bảo cho việc gánh vác một nghĩa vụ về tài sản trong các quan hệ dân sự – thương mại, pháp nhân phải có tài sản riêng thuộc quyền sở hữu của mình. Một nguyên tắc đã được thừa nhận chung trong các quan hệ tài sản là chỉ khi có sự độc lập về quyền sở hữu đối với tài sản, nói cách khác, là độc lập trong việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản, các chủ thể mới có sự bình đẳng thực sự về mặt pháp lý.
Thứ tư, nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Sự tách bạch tuyệt đối về tài sản đã làm hình thành nên khối tài sản thống nhất thuộc quyền sở hữu của pháp nhân. Pháp nhân có năng lực về tài sản và có ý chí thống nhất là cơ sở để trở thành một chủ thể độc lập tham gia quan hệ tài sản.
Căn cứ vào mục tiêu hoạt động, có thể chia pháp nhân thành 2 loại: (1) Pháp nhân thương mại: là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. (2) Pháp nhân phi thương mại: à pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên. Trong tham gia quan hệ pháp luật dân sự, thương mại, pháp nhân phi thương mại chiếm đa số và có nhiều vấn đề pháp lý phát sinh từ chủ thể này, khá phức tạp và nhiều khó khăn, vướng mắc.
Như vậy, pháp nhân là tổ chức được thừa nhận là chủ thể quan hệ pháp luật. Sự xuất hiện của pháp nhân là sự tuân theo xu hướng nhân hóa những đoàn thể cá nhân hay các tập hợp tài sản này với những người thường và công nhận cho các thực thể ấy một nhân cách pháp lý gọi là pháp nhân.
3. Năng lực pháp luật của cá nhân
Thứ nhất, khái niệm
Theo Điều 19 của Bộ luật dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được hiểu là khả năng của cá nhân có quyền dân sư và nghĩa vụ dân sự. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự ngang nhau. Đây là năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật dân sự có quy định khác hoặc luật khác có liên quan.
Thứ hai, nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
- Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.
+ Quyền nhân thân được hiểu theo Bộ luật dân sự như sau: Là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.
+ Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được người đại diện theo pháp luật của người này đồng ý theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc theo quyết định của Tòa án.
+ Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết phải được sự đồng ý của vợ, chồng hoặc con thành niên của người đó; trường hợp không có những người này thì phải được sự đồng ý của cha, mẹ của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
- Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản.
- Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
Như vậy, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp bị mất năng lực hành vi (bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình), hạn chế năng lực hành vi (nghiện ma túy hoặc nghiện các chất kích thích dẫn đến phá tán tài sản) hoặc có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi (người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi chứ chưa đến mất năng lực hành vi).
- Khi các cá nhân rơi vào các trường hợp trên thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, toà án ra quyết định tuyên bố theo từng trường hợp trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền. Mọi giao dịch dân sự của những người thuộc trường hợp trên đều do người đại diện theo pháp luật hoặc người giám hộ xác lập, thực hiện. (trừ các trường hợp phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày)
- Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, phù hợp với lứa tuổi
- Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng kí và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
4. Năng lực pháp luật của pháp nhân
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là yếu tố cấu thành năng lực chủ thể của pháp nhân bên cạnh yếu tố năng lực hành vi dân sự của pháp nhân.
Giống với quy định về cá nhân, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự.
Những quyền và nghĩa vụ thuộc năng lực pháp luật của pháp nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Những quyền và nghĩa vụ này tồn tại dưới dạng “khả năng”. Nếu pháp nhân muốn hiện thực hóa những quyền và nghĩa vụ đang ở dạng khả năng thành hiện thực thì phải thông qua hành vi của pháp nhân trên thực tế.
5. Pháp nhân và cá nhân khác nhau về năng lực pháp luật dân sự
Giống nhau:
– Cả năng lực chủ thể của pháp nhân và năng lực chủ thể của cá nhân đều có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là một chủ thể và tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp luật đã tham gia.
– Cả hai đều có năng lực chủ thể được tạo thành bởi hai yếu tố là năng lực pháp luật dân sự tức là khả năng do pháp luật quy định và năng lực hành vi dân sự tức là khả năng tự có của chính chủ thể đó. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là hai yếu tố cần và đủ tạo nên năng lực chủ thể của cá nhân và pháp nhân, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hợp nhất.
– Cả năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân và của cá nhân đều là tiền đề pháp lý để thực hiện năng lực hành vi nghĩa là phạm vi các quyền do pháp luật quy định cho cá nhân, pháp nhân chỉ có các quyền và thực hiện các quyền đã được pháp luật ghi nhận. Vì vậy, cá nhân và pháp nhân chỉ được thực hiện những hành vi nhất định trong trường hợp pháp luật cho phép và không cấm.
– Cả năng lực hành vi dân sự của pháp nhân và năng lực hành vi dân sự của cá nhân đều là ”phương tiện” để hiện thực hóa năng lực pháp luật. Điều này được lý giải bởi các quyền của cá nhân, pháp nhân được pháp luật ghi nhận chỉ trở thành hiện thực thành các quyền dân sự cụ thể nếu đã được chính chủ thể đó bằng khả năng hành vi của mình thực hiện.
Khác nhau:
Vấn đề cần phân biệt | Pháp nhân | Cá nhân |
Năng lực pháp luật | – Có từ khi thành lập. – Chấm dứt khi pháp nhân không còn tồn tại. – Xác định trong quyết định thành lập, điều lệ của pháp nhân đó. – Phụ thuộc vào từng pháp nhân. |
– Có từ khi sinh ra. – Chấm dứt khi chết (chỉ hạn chế nếu pháp luật có quy định). – Xác định trong các văn bản pháp luật. – Như nhau giữa các cá nhân. |
Năng lực hành vi | – Khả năng hoạt động. – Phụ thuộc vào năng lực pháp luật của từng pháp nhân. – Có đồng thời với năng lực pháp luật. – Chỉ không còn khi pháp nhân chấm dứt tồn tại. |
– Khả năng thực hiện hành vi. – Phụ thuộc vào mức độ nhận thức, trưởng thành của cá nhân. – Chỉ có khi đạt độ tuổi nhất định. – Có thể không còn khi cá nhân còn sống. |
Trên đây là Pháp nhân và cá nhân khác nhau về năng lực pháp luật dân sự mà ACC muốn giới thiệu đến quý bạn đọc. Hi vọng bài viết sẽ hỗ trợ và giúp ích cho quý bạn đọc về vấn đề này!
Nội dung bài viết:
Bình luận