Pháp luật về hoà giải thương mại và một số khuyến nghị hoàn thiện

Hiện nay, việc giải quyết tranh chấp thương mại ở nước ta chủ yếu được thực hiện thông qua hệ thống tư pháp. Trong bối cảnh này, hòa giải thương mại - giải quyết tranh chấp thay thế (ADR) - có thể là một lựa chọn tốt để đa dạng hóa các phương thức giải quyết tranh chấp và giảm gánh nặng phán quyết. Hòa giải thương mại vẫn được coi là một phương thức hiệu quả và rất phổ biến trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phát triển. Bài viết này của ACC sẽ tập trung làm rõ hai vấn đề: (i) thực trạng khung pháp lý về hòa giải thương mại ở Việt Nam; (ii) một số kiến ​​nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

Bao Lanh Ngan Hang La Gi 1
Pháp luật về hoà giải thương mại và một số khuyến nghị hoàn thiện

1. Thực trạng khung pháp lý về hòa giải thương mại ở Việt Nam 

Cho đến năm 2012, phần lớn các tranh chấp kinh doanh tại Việt Nam đã được giải quyết thông qua thủ tục tố tụng tại tòa án. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mặc dù đã được sử dụng nhưng vẫn còn hạn chế - chỉ chiếm khoảng 1% tổng số tranh chấp thương mại. Hòa giải thương mại cũng đã được các bên tranh chấp lựa chọn nhưng phạm vi và hiệu quả rất thấp. Hòa giải thường chỉ được tiến hành như một phần của thủ tục tố tụng trọng tài hoặc tòa án và trọng tài viên hoặc thẩm phán xét xử vụ việc cũng đóng vai trò là người hòa giải. Các dịch vụ hòa giải tư nhân hiện cũng được cung cấp bởi một số chuyên gia, công ty tư vấn, công ty luật và hiệp hội.

Tuy nhiên, các tổ chức này chưa coi hòa giải là một hoạt động chuyên nghiệp và cũng  chưa chú trọng đến phương pháp này. Ngoài ra, một số cá nhân, tổ chức khác có ý định tiến hành hòa giải cũng không biết  bắt đầu từ đâu vì không có cơ sở pháp lý rõ ràng để dịch vụ hòa giải hình thành, tồn tại và phát triển. Còn đối với các tổ chức hòa giải chuyên nghiệp, chỉ có Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ban hành bộ luật hòa giải và  cung cấp dịch vụ hòa giải từ năm 2007.

Đây là nỗ lực lớn của VIAC trong việc hướng dẫn các bên lựa chọn hòa giải viên và khuyến nghị trình tự, thủ tục mà các bên nên lựa chọn làm cơ sở cho quá trình hòa giải ngoài tố tụng tòa án. Nhưng xét về tổng thể, hòa giải thương mại với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập vẫn còn ít được áp dụng tại Việt Nam.

Về mặt pháp lý, một số điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia như hiệp định bảo hộ và khuyến khích đầu tư, hiệp định thương mại song phương và đa phương cũng quy định hòa giải là một trong những biện pháp  được thực hiện. ưu tiên khi giải quyết các tranh chấp tiềm ẩn. Các cam kết về dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng bao gồm các cam kết về dịch vụ hòa giải thương mại. Trong pháp luật các nước, phương thức hòa giải  chỉ được ghi nhận  sơ lược trong các văn bản quy phạm pháp luật như Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005, Luật Đầu tư 2005, Luật Trọng tài Thương mại 2010[10]. Mặc dù từ năm 1998, Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh Tổ chức và hoạt động hòa giải cơ sở, nay được thay thế bằng Luật hòa giải cơ sở năm 2013, hình thức hòa giải cộng đồng được đề cập trong các văn bản Luật này không thực sự liên quan đến hoạt động thương mại mà là hòa giải - được tiến hành thông qua Tổ hòa giải và các Hòa giải viên - chỉ nhằm mục đích hỗ trợ giải quyết các tranh chấp nhỏ liên quan đến cuộc sống hàng ngày trong khu dân cư. Mặc dù Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp năm 2020 đã thể hiện chủ trương “khuyến khích giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải”, trọng tài viên; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc hòa giải này”, cho đến nay, pháp luật Việt Nam vẫn thiếu các quy định điều chỉnh trực tiếp và toàn diện hòa giải thương mại với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập với tòa án và trọng tài.

Trong bối cảnh chưa có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hòa giải thương mại, cần khẩn trương soạn thảo Nghị định quy định trực tiếp về hoạt động hòa giải thương mại theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 808/QĐ-TTg ngày 29 tháng 6 năm 2012 ban hành chương trình hành động về hòa giải thương mại. thực hiện Chiến lược chính phát triển ngành dịch vụ Việt Nam đến năm 2020 là hết sức cần thiết. Nghị định này sẽ tạo hành lang pháp lý khuyến khích sử dụng hòa giải là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, giúp giảm bớt gánh nặng cho hoạt động xét xử của tòa án. Việc ban hành Nghị định riêng về hòa giải thương mại cũng tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển các tổ chức hòa giải và thể chế hóa các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.

2. Một số kiến ​​nghị hoàn thiện khung pháp lý về hòa giải thương mại

Việc xây dựng khung pháp lý riêng về hòa giải thương mại phù hợp với mô hình hòa giải độc lập ở Việt Nam là cần thiết. Mặc dù nhiều quốc gia không ban hành khung pháp lý riêng về hòa giải thương mại và nhiều học giả cho rằng không cần thiết vì hòa giải là việc riêng tư và tự nguyện của các bên tranh chấp nên việc ban hành luật hòa giải thương mại là không cần thiết. Một luật riêng về vấn đề này ở Việt Nam là rất quan trọng. Đây sẽ là một bước tiến mạnh mẽ và minh bạch để Việt Nam thể chế hóa cam kết gia nhập WTO, cũng như khuyến khích việc sử dụng độc lập phương thức giải quyết tranh chấp này bên cạnh các phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống đã hình thành sau trọng tài hoặc tòa án. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, một khung pháp lý riêng về hòa giải thương mại không chỉ có ý nghĩa pháp lý là khuôn khổ xử sự của các bên xung đột mà còn có ý nghĩa giáo dục, giúp nâng cao nhận thức trong cộng đồng xã hội, đặc biệt là giới doanh nhân đối với phương thức hòa giải này. tranh chấp. nghị quyết. Việc công nhận mô hình hòa giải độc lập này bằng một Nghị định theo chỉ đạo của Chính phủ trong giai đoạn hiện nay là kịp thời. Cuối cùng, có thể hướng tới sự tổng hợp, rút ​​ra bài học kinh nghiệm để ban hành một luật riêng về hòa giải thương mại như ở Ấn Độ, Nhật Bản hay Philippines. Khi xây dựng nội dung Nghị định về hòa giải thương mại, chúng ta cần lưu ý một số vấn đề cốt lõi sau đây:

Thứ nhất, về tiêu chuẩn hòa giải viên
Với tư cách là người hỗ trợ các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp, không phải là người đưa ra kết luận, quyết định hay phán quyết cuối cùng như trọng tài hay thẩm phán, hòa giải viên giỏi không đơn thuần là người có hiểu biết về chuyên môn mà quan trọng hơn phải là người có khả năng thuyết phục, đàm phán, dẫn dắt các bên tranh chấp đạt được tiếng nói chung. Dù một số văn bản pháp luật như Luật mẫu về Hòa giải thương mại của UNCITRAL 2002 không đề cập vấn đề tiêu chuẩn hòa giải viên, nhưng xét trong bối cảnh một đất nước đang phát triển và để đảm bảo bước đầu cho sự phát triển ổn định của phương thức hòa giải, việc đưa ra các quy định pháp lý về tiêu chuẩn tối thiểu về chuyên môn hay năng lực hành vi dân sự của hòa giải viên ở Việt Nam là chấp nhận được. Các tiêu chuẩn thiên về định tính như kỹ năng hòa giải, dù rất cần thiết và mang tính sống còn đối với hoạt động hòa giải, nhưng khó định lượng, nên để cho các trung tâm hòa giải tự quy định và thẩm định.

Về việc đào tạo nghề cho hòa giải viên, Luật mẫu về Hòa giải thương mại của UNCITRAL 2002 không đề cập, nhưng thế giới hiện tồn tại 3 mô hình tiếp cận cơ bản liên quan việc đào tạo nghề cho hòa giải viên: (i) mô hình đào tạo nghề bắt buộc theo chương trình do nhà nước quy định và được thực hiện bởi cơ quan nhà nước; (ii) mô hình đào tạo nghề theo chương trình khung do nhà nước ban hành nhưng có thể do tổ chức tư nhân thực hiện; (iii) mô hình đào tạo nghề hoàn toàn do các tổ chức tư nhân thực hiện. Mô hình thứ nhất hiện có rất ít quốc gia sử dụng (ví dụ Áo, Nga), trong đó có sự can thiệp sâu của nhà nước cả về chương trình lẫn cơ quan tổ chức đào tạo. Ở mô hình thứ hai, nhà nước (ví dụ như ở Đức) chỉ can thiệp về mặt chương trình đào tạo để hướng dẫn những kiến ​​thức và kỹ năng cần có của một hòa giải viên.

Mặt khác, mô hình thứ ba giao toàn bộ quyền quyết định liên quan đến yêu cầu đào tạo, chuyên môn và kỹ năng của hòa giải viên cho thị trường tự quyết định. Như vậy, chẳng hạn ở Vương quốc Anh, các yêu cầu về chuyên môn, kỹ năng và đào tạo sẽ do các trung tâm/tổ chức hòa giải quyết định. Để phù hợp với tính chất riêng tư và tự nguyện của hòa giải và tương tự như mô hình đào tạo trọng tài viên hiện nay, Việt Nam nên áp dụng mô hình thứ ba trao quyền tích cực cho các tổ chức nghề nghiệp trong việc đào tạo và thăng chức cho hòa giải viên.

Thứ hai, về địa vị pháp lý của hòa giải viên
Xét về bản chất, khi so sánh phương thức hòa giải với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, hòa giải viên luôn là người đồng hành, tư vấn cho các bên trong việc tìm kiếm tiếng nói chung và giải pháp chung cho tranh chấp. Hòa giải viên không thể ở vị trí đưa ra phán quyết tùy thuộc vào sự tôn trọng của các bên với tư cách là trọng tài viên.

Trong quá trình hòa giải, nghĩa vụ của hòa giải viên là hành động độc lập, khách quan, công bằng và chính đáng. Đây là yêu cầu cần thiết đối với hòa giải viên. Hòa giải viên phải thông báo về những tình tiết, yếu tố ảnh hưởng đến tính độc lập, vô tư của mình, đồng thời từ chối tiến hành hòa giải nếu có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc, đến việc hòa giải hoặc vì lý do khác dẫn đến không bảo đảm khách quan, công bằng. trong hòa giải. Hòa giải viên có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin liên quan đến vụ việc tranh chấp mà mình đang giải quyết, trừ trường hợp được các bên tranh chấp đồng ý hoặc cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền theo các điều kiện do pháp luật quy định. Hòa giải viên không thể đóng vai trò là đại diện hoặc tư vấn cho một trong hai bên. Hòa giải viên cũng không thể đóng vai trò là trọng tài viên cho cùng một tranh chấp đang hoặc đã từng là đối tượng hòa giải, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.

Tuy nhiên, như được quy định trong Luật mẫu hòa giải và Quy tắc hòa giải, cũng cần có các điều khoản để đảm bảo quyền của hòa giải viên được thực hiện linh hoạt trong quá trình hòa giải. Theo đó, hòa giải viên có quyền yêu cầu các bên tranh chấp cung cấp tóm tắt nội dung vụ việc kèm theo các thông tin liên quan. Hòa giải viên có quyền gặp trực tiếp hoặc liên lạc với các bên tranh chấp một cách riêng biệt hoặc cùng một lúc. Hòa giải viên có quyền đưa ra các đề xuất giải quyết vụ việc bất cứ lúc nào trong quá trình hòa giải.

Thứ ba, thành lập thí điểm trung tâm hòa giải thương mại
Trong bối cảnh bước đầu xây dựng khung pháp lý riêng về hòa giải thương mại và hơn hết là nhận thức của cộng đồng về phương thức này còn hạn chế, việc cho phép thành lập nhiều trung tâm hòa giải thương mại có thể gặp nhiều khó khăn và mang lại hiệu quả tiêu cực. Hoạt động thiếu chuyên nghiệp và cạnh tranh không lành mạnh của một số trung tâm có thể dẫn đến đánh giá tiêu cực về công ty, cả đối với các trung tâm hòa giải làm việc nghiêm túc và phương pháp hòa giải. Hệ quả này ở một mức độ nào đó đã xảy ra đối với các trung tâm trọng tài. Hơn nữa, không cần phải cho phép thành lập một số trung tâm hòa giải ngay bây giờ vì nhu cầu hòa giải hiện tại (như đã đề cập ở trên) và ngắn hạn - vẫn còn hạn chế. Mặc dù người ta cho rằng cộng đồng doanh nghiệp sẽ ngày càng sử dụng nhiều hơn đến hòa giải, nhưng điều đó không xảy ra trong một sớm một chiều. Điều này được thấy rõ trong lĩnh vực trọng tài, nơi nhiều trung tâm trọng tài vẫn chỉ tồn tại trên giấy tờ thay vì hoạt động cụ thể.

Vì vậy, trong giai đoạn đầu, nhà nước nên thành lập thí điểm trung tâm hòa giải thương mại độc lập. Trung tâm hòa giải thương mại này là một tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, được Bộ Tư pháp hoặc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam giám sát và bảo trợ, có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều hiệp hội ngành nghề trong ngành Công Thương. Kinh nghiệm hoạt động của trung tâm hòa giải thương mại độc lập thí điểm này sẽ là cơ sở để tổng kết, đánh giá và xác định các bước tiếp theo triển khai mô hình tổ chức trung tâm hòa giải thương mại.

Thứ tư, về thủ tục hòa giải
Hiện nay, chưa có quy trình hòa giải thống nhất mà mỗi trung tâm hòa giải, hòa giải viên sẽ áp dụng quy trình riêng phù hợp với nội dung, tính chất của tranh chấp. Theo đó, thủ tục hòa giải cần linh hoạt, bảo đảm các bên tranh chấp tự quyết định được thời gian, địa điểm, trình tự và nội dung hòa giải. Các bên có thể đề xuất với hòa giải viên những thay đổi về quy trình hòa giải cho phù hợp với hoàn cảnh của mình và có thể tiếp tục tiến hành cho đến khi quá trình hòa giải kết thúc hoặc ngừng tham gia hòa giải nếu thấy không hiệu quả hoặc muốn giải quyết bằng các phương thức khác. Quy chế hòa giải thương mại cần nêu rõ sự khác biệt giữa thủ tục hòa giải với thủ tục trọng tài, tòa án; ngăn cản các bên sử dụng trọng tài hoặc tố tụng pháp lý trong khi quá trình hòa giải đang được tiến hành.

Thứ năm, về giá trị pháp lý của thỏa thuận lựa chọn phương thức hòa giải để giải quyết tranh chấp (thỏa thuận hòa giải)
Theo quy định của pháp luật nhiều nước, pháp luật Việt Nam hiện hành, luật mẫu về hòa giải và các nguyên tắc hòa giải thì kể cả khi có thỏa thuận hòa giải thì tòa án, trọng tài vẫn có thể thụ lý tranh chấp của các bên để giải quyết. Trong khi đó, pháp luật một số nước (như Anh, Úc, Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản) quy định tòa án, trọng tài không được thụ lý vụ việc nếu các bên không đạt được thỏa thuận hòa giải. Xét đặc điểm của hoạt động hòa giải, các quy định như Luật mẫu về hòa giải và Quy tắc hòa giải về giá trị pháp lý của thỏa thuận hòa giải là phù hợp và cần được chấp nhận. Thỏa thuận hòa giải cũng giống như thỏa thuận trọng tài ở chỗ các bên tranh chấp tự nguyện lựa chọn phương thức giải quyết.

Tuy nhiên, trong hòa giải, việc giải quyết tranh chấp chỉ đạt được khi các bên tranh chấp thực sự có tiếng nói chung, hòa giải viên chỉ là người giúp các bên đạt được điều này, còn trong trọng tài, kết quả của tranh chấp phụ thuộc vào quyết định của trọng tài viên, không nhất thiết phải có sự đồng ý của các bên tranh chấp. Vì vậy, nếu một trong các bên tranh chấp không còn mong muốn thực hiện đúng thỏa thuận hòa giải để khởi kiện ra tòa án, trọng tài thì dù pháp luật buộc phải từ chối thụ lý thì trong trường hợp này cũng khó có thể đưa ra được. về việc hòa giải thành giữa các bên.

Thứ sáu, về hiệu lực thi hành của thỏa thuận hòa giải thành
Luật hòa giải mẫu (cùng với Quy tắc hòa giải) chỉ quy định rằng các bên bị ràng buộc bởi thỏa thuận hòa giải thành, nhưng bỏ ngỏ phương thức thực hiện thỏa thuận hòa giải thành. Các quốc gia hiện có ba cách tiếp cận chính đối với khả năng thực thi của thỏa thuận hòa giải:
1. Thỏa thuận hòa giải không có hiệu lực pháp lý như phán quyết của tòa án mà chỉ có giá trị như một hợp đồng giữa hai bên tranh chấp (ví dụ ở Pháp, Thái Lan, Canada, Hoa Kỳ). Nếu một trong hai bên không tuân thủ, bên kia có thể khởi kiện dựa trên bằng chứng về một thỏa thuận hòa giải. Thông thường, tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận này và ra lệnh thi hành dưới hình thức bản án.
2. Một thỏa thuận hòa giải thành công được coi là một hợp đồng đặc biệt và được đăng ký và thực hiện ngay lập tức mà không cần lệnh của tòa án (ví dụ như ở Philippines).
3. Một thỏa thuận hòa giải thành công có hiệu lực thi hành bởi tòa án (bằng công nhận hoặc xác nhận), chứ không phải bằng phán quyết (ví dụ: Ý, Trung Quốc, Ấn Độ). Mặc dù mô hình thứ hai và thứ ba đều cho phép thực thi ngay lập tức thỏa thuận hòa giải hoặc bằng sự công nhận của tòa án, nhưng mô hình thứ nhất chỉ công nhận thỏa thuận hòa giải thành công như một hợp đồng mới giữa các bên. Mặc dù ở mô hình thứ nhất, thỏa thuận hòa giải thành chỉ được coi như một hợp đồng mới giữa các bên tranh chấp, nhưng cuối cùng, nếu tòa án phán xét đúng thì cuối cùng sẽ công nhận giải pháp mà các bên đã thống nhất.

Vì vậy, để tiết kiệm thời gian, chi phí, đơn giản hóa thủ tục, đồng thời khẳng định mạnh mẽ hiệu lực thi hành của thỏa thuận hòa giải thành và tăng tính hấp dẫn của phương thức hòa giải, Việt Nam nên công nhận hiệu lực thi hành của thỏa thuận hòa giải thành tương tự như phán quyết trọng tài. Tất nhiên, để làm được điều này, cần phải sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo