Pháp lệnh trọng tài thương mại hiện hành

Pháp lệnh trọng tài thương mại hiện hành
Pháp lệnh trọng tài thương mại hiện hành

I. Khái niệm Trọng tài thương mại

Theo quy định tại Khoản 1 Mục 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại  2003: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Pháp lệnh này quy định “. 

Căn cứ quy định tại Khoản 1 Mục 3 Luật trọng tài thương mại 2010 thì “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại”

Nhìn chung, trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp  phi nhà nước (phi chính phủ) do các bên lựa chọn để giải quyết  tranh chấp kinh doanh. Trọng tài viên chính là  trung gian thứ ba do các bên tranh chấp lựa chọn  để giúp các bên giải quyết mâu thuẫn, bất đồng trên cơ sở bảo đảm  quyền tự định đoạt của các bên. Phương thức trọng tài bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện. Để đưa tranh chấp ra trọng tài, các bên phải ký kết thỏa thuận trọng tài. Phương thức giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài khá giống với phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải. Cả hai phương thức này đều có sự xuất hiện của bên thứ ba. Tuy nhiên, với hình thức hòa giải, vai trò của bên thứ ba chỉ mang tính chất hỗ trợ, giúp  các bên đạt được thỏa thuận. Trong trọng tài, sau khi xem xét các sự kiện, trọng tài có thể đưa ra phán quyết ràng buộc các bên. 

II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA  LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 

Thủ tục trọng tài đã hình thành và phát triển ở Việt Nam từ lâu, tuy nhiên trong thời gian gần đây, trọng tài ở nước ta đã từng bước vận hành theo những chuẩn mực mới, được thừa nhận rộng rãi và luật hóa toàn cầu. 

Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, nước ta đã có tòa án thương mại và các quy tắc trọng tài trong luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, vì nhiều lý do và hoàn cảnh khác nhau, trọng tài vẫn chưa được biết đến và sử dụng rộng rãi. Trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, ở Việt Nam có hai loại  trọng tài, một là trọng tài kinh tế nhà nước và hai là trọng tài phi nhà nước.  

- Trọng tài kinh tế nhà nước: 

Trọng tài kinh tế nhà nước là mô hình trọng tài do nhà nước thành lập, có chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp nhà nước. Mô hình này ra đời từ Nghị định 20/TTg ngày 14/4/1960, trước khi được nâng cấp trong Pháp lệnh Trọng tài kinh tế Nhà nước năm 1990, theo đó trọng tài được tổ chức theo 3 cấp là: Trọng tài kinh tế Nhà nước, Trọng tài kinh tế cấp tỉnh và Trọng tài kinh tế cấp huyện. trọng tài. Như vậy, về bản chất, Trọng tài kinh tế Nhà nước là cơ quan của Nhà nước vừa thực hiện chức năng quản lý kinh tế, vừa thực hiện chức năng trọng tài của Tòa án để giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các tổ chức. Tổ chức kinh tế của nhà nước, chưa thể hiện được vai trò trọng tài. Trong khi đó, Toà án nhân dân thời kỳ này không có thẩm quyền xét xử các  tranh chấp kinh tế mà chỉ có thẩm quyền xét xử các tranh chấp dân sự giữa các cá nhân với nhau, chủ yếu là  hôn nhân và gia đình hoặc các tranh chấp liên quan đến tài sản phục vụ cho mục đích  sử dụng và tiêu dùng của cá nhân. Mô hình trọng tài kinh tế tồn tại cho đến năm 1993 và được thay thế bằng hệ thống tài phán kinh tế theo Luật sửa đổi một số mục của Đạo luật tổ chức tòa án năm 1993. Kể từ thời điểm đó, các tòa án kinh tế sẽ giải quyết các tranh chấp kinh tế. 

Ngoài việc thành lập  các trung tâm trọng tài mới như trên, năm 1995 Việt Nam còn tham gia  Công ước New York về  công nhận và  thi hành phán quyết trọng tài. Gia nhập Công ước có nghĩa là bất kỳ phán quyết trọng tài nào của bất kỳ quốc gia nào là thành viên của Công ước mà  một bên của phán quyết có trụ sở tại Việt Nam hoặc có tài sản tại Việt Nam  đều có thể được Nhà nước Việt Nam công nhận. Ngược lại, bất kỳ phán quyết trọng tài nào của  Việt Nam đều có thể được công nhận và cho thi hành tại bất kỳ quốc gia thành viên nào của công ước. Có thể nói, việc giải thể trọng tài kinh tế nhà nước, sự ra đời của các trung tâm trọng tài thương mại độc lập năm 1993, 1994 và việc gia nhập Công ước New York đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng khi nhà nước chi trả cho hoạt động kinh doanh chênh lệch giá thương mại về đúng bản chất của nó. và chức năng, đánh dấu sự cải thiện đáng kể trong môi trường pháp lý để tạo thuận lợi cho việc thu hút đầu tư nước ngoài. 

Tuy nhiên, bất chấp những tiến bộ đáng kể nêu trên, ở giai đoạn sơ khai này, vẫn chưa có  luật  trọng tài thống nhất điều chỉnh hệ thống trọng tài trong nước và  quốc tế. Ngoài ra, quyết định  của trọng tài không có giá trị ràng buộc. Vì vậy, mô hình trọng tài thương mại chưa thực sự đạt được  thành tựu đáng kể nào trên con đường tiếp cận các chuẩn mực của trọng tài thương mại hiện đại. 

Để đảm bảo  cơ sở pháp lý cho hoạt động của các trung tâm trọng tài thương mại thay cho  trọng tài kinh tế, ngày 25/02/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh trọng tài thương mại, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2003. Về cơ bản, phán quyết phù hợp với luật pháp  và thông lệ quốc tế trong việc điều chỉnh các vấn đề trọng tài trọng tài như quy định về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, điều kiện trở thành trọng tài viên, quy định về  vụ việc, mở rộng  quyền lựa chọn trọng tài viên, tài liệu chứng minh mối quan hệ giữa trọng tài viên và hội đồng trọng tài với hàng loạt  quy định cụ thể như hỗ trợ thực hiện thỏa thuận trọng tài, chỉ định trọng tài viên, giải quyết khiếu nại liên quan đến thẩm quyền của hội đồng trọng tài, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, giải quyết yêu cầu hủy phán quyết  trọng tài, lưu trữ hồ sơ trọng tài, v.v. Qua quá trình triển khai thực hiện, Pháp lệnh đã đạt được một số thành công sau: 

- Thứ nhất, ý nghĩa về mặt quy phạm pháp luật. Kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, trọng tài đã thực sự chuyển đổi từ cơ quan hành chính nhà nước có chức năng giải quyết tranh chấp sang  tổ chức có chức năng tài chính. Sự ra đời của Lệnh là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật  trọng tài Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý để trọng tài Việt Nam tiếp cận và hội nhập với trọng tài  các nước phát triển. Từ nay trở đi, trọng tài được hiểu là phương thức giải quyết tranh chấp hoàn toàn do các bên thỏa thuận, lựa chọn.  

- Thứ hai, về mô hình và cơ cấu tổ chức của trọng tài. Theo thông lệ của nhiều nước trên thế giới, pháp lệnh ghi nhận hai loại hình  trọng tài, gồm  trung tâm trọng tài, còn gọi là trọng tài thường trực hoặc tổ chức trọng tài, và trọng tài ad hoc, còn gọi là  tài khoản ad hoc. Việc thừa nhận hai hình thức trọng tài là một điểm đổi mới quan trọng về nội dung của Pháp lệnh. Đây là lần đầu tiên  trọng tài vụ việc được ghi nhận chính thức trong Pháp lệnh. Quy định này giúp các bên tranh chấp hoàn toàn  tự do lựa chọn cho mình hình thức trọng tài thích hợp nhất để giải quyết tranh chấp.  

- Thứ ba, về  thẩm quyền của trọng tài. Lệnh xác định phạm vi  quyền tài phán bằng cách liệt kê các loại trọng tài sẽ được giải quyết. Theo đó, trọng tài có thẩm quyền giải quyết  tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại được định nghĩa rộng theo  tinh thần của Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (Luật mẫu của UNCITRAL). Việc đưa ra định nghĩa về khái niệm thương mại là một bước tiến quan trọng thể hiện công việc tiên phong của pháp luật vào thời điểm đó. 

- Thứ tư, Pháp lệnh quy định cơ chế xác định  hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài phù hợp hơn, làm cơ sở cho việc phân định thẩm quyền giữa Trọng tài và Tòa án. Theo đó, Trọng tài viên chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài, đồng thời Tòa án phải từ chối giải quyết vụ tranh chấp khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài được giao kết . 

Xa hơn, trình tự giải quyết thỏa thuận trọng tài vô  hiệu là cơ sở để các bên  khởi kiện ra tòa án. Quy định này nhằm đảm bảo mọi tranh chấp phát sinh đều được giải quyết ổn thỏa, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp. 

- Thứ năm, Pháp lệnh quy định rõ những nguyên tắc quan trọng nhất của  trọng tài, đó là  tôn trọng quyền tự quyết và bình đẳng của các bên tranh chấp. Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên  tự do lựa chọn hình thức trọng tài, tự do thỏa thuận về các điều khoản chỉ định Trọng tài viên, thay đổi Trọng tài viên, địa điểm trọng tài, ngôn ngữ trọng tài và luật áp dụng để giải quyết  tranh chấp, vân vân. Ngoài ra, còn có các nguyên tắc về sự độc lập của trọng tài viên trong quá trình giải quyết tranh chấp; nguyên tắc bảo mật thông tin về tranh chấp và giải quyết tranh chấp, v.v. Đây là những nguyên tắc chung đã được quy định trong Luật mẫu UNCITRAL  và được  thừa nhận chung trong hoạt động của trọng tài trên thế giới.  Thứ sáu,  lệnh  quy định về sự hỗ trợ của Nhà nước và cụ thể hơn là của Tòa án Trọng tài với hàng loạt  quy định từ việc xác định hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài, chỉ định trọng tài viên, giải quyết khiếu nại liên quan đến thẩm quyền của trọng tài. hội đồng trọng tài, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, giải quyết yêu cầu hủy phán quyết  trọng tài và lưu giữ hồ sơ trọng tài. Đây là vấn đề quan trọng nhất mà cộng đồng doanh nghiệp quan tâm và mong đợi nhất. Với việc ban hành hàng loạt  quy tắc xác lập vai trò của Tòa án trong hoạt động trọng tài, Pháp lệnh đã lấp đầy “khoảng trống” của hệ thống pháp luật về trọng tài trước đây. Điều này sẽ giúp tăng tính hấp dẫn, hiệu quả của công tác trọng tài,  góp phần thúc đẩy công tác trọng tài phát triển. Có thể gọi đây là  sự hỗ trợ cho trọng tài, thể hiện quan điểm của nhà nước trong việc đa dạng hóa các phương thức giải quyết tranh chấp và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các chủ thể kinh doanh được nhà nước pháp luật bảo vệ trong quá trình  giao dịch kinh doanh. Thứ bảy, trình tự xác lập  giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài và hiệu lực của phán quyết trọng tài. Phán quyết trọng tài có giá trị pháp lý và được thi hành như phán quyết của tòa án, từ đó tạo  niềm tin cho doanh nghiệp. Điều này đã khắc phục hoàn toàn  tình trạng trước đây  phán quyết trọng tài được đưa ra nhưng không có  cơ chế thi hành  khiến doanh nghiệp mất niềm tin khi lựa chọn trọng tài viên để giải quyết tranh chấp. 

Sự ra đời của Lệnh là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật  trọng tài  Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý để trọng tài Việt Nam tiếp cận và hội nhập với trọng tài  các nước phát triển. Tuy nhiên qua sáu năm áp dụng cùng với sự xuất hiện của nhiều nhân tố mới như Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, với sự xuất hiện của các đạo luật mới: Luật thương mại năm 2005, Luật đầu tư năm 2005, v.v. một số quy định của Pháp lệnh đã bộc lộ bất cập và không còn phù hợp với tình hình mới.  

- Thứ nhất, mặc dù Pháp lệnh đã quy định thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại cũng như đưa ra khái niệm “hoạt động thương mại” tương đối rộng, gồm “mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định”, nhưng trong quá trình thực thi vẫn phát sinh nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến tranh cãi về phạm vi áp dụng của Pháp lệnh, chẳng hạn đối với những tranh chấp phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp, hay tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu,… 

- Thứ hai, Pháp lệnh quy định chủ thể được yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là “tổ chức, cá nhân kinh doanh” nhưng lại không có hướng dẫn cụ thể dẫn đến hiểu không thống nhất về việc đối tượng này có bắt buộc phải có đăng ký kinh doanh hay không. Mặt khác, nhiều tổ chức như các ban quản lý dự án, cơ quan hành chính sự nghiệp tham gia đấu thầu hoặc giao kết các hợp đồng, kể cả các hợp đồng mua sắm chính phủ, trong đó sử dụng trọng tài theo khuyến nghị của các nhà tài trợ, định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á lại không được phép lựa chọn trọng tài theo Pháp lệnh vì không phải là tổ chức kinh doanh. 

- Thứ ba, về thỏa thuận trọng tài, Pháp lệnh đã xác định được tiêu chí hình thức bắt buộc đó là thỏa thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm “văn bản” vẫn còn hẹp so với Luật Mẫu và luật trọng tài của các nước. Mặt khác, quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi thỏa thuận trọng tài quy định “không xác định rõ tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp” là không hợp lý, không phù hợp với pháp luật và thực tiễn trọng tài quốc tế. Ngoài ra, Pháp lệnh đã bỏ qua một quy định rất cơ bản đó là vấn đề thỏa thuận trọng tài “không thể thực hiện được hoặc không thể thi hành được”.  

- Thứ tư, về biện pháp khẩn cấp tạm thời: Lệnh chỉ giới hạn thẩm quyền của Tòa án, khi Hội đồng trọng tài thụ lý  tranh chấp, có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này có thể gây khó khăn cho cả Tòa án và các bên trong việc áp dụng quy định này. Chẳng hạn, khi các bên nộp đơn lên Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, theo Pháp lệnh nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì chỉ có thể yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. biện pháp khẩn cấp tạm thời. Khi đó, nếu tài sản nằm ở khu vực khác thì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ không khả thi và không hợp lý. 

- Thứ năm, vấn đề gọi người làm chứng. Lệnh không thiết lập cơ chế hỗ trợ  Tòa án cho trọng tài viên trong việc thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng. Do không có cơ chế hỗ trợ nêu trên nên các luật sư và công ty còn lúng túng khi lựa chọn trọng tài Việt Nam để giải quyết tranh chấp. 

- Thứ sáu, vấn đề xem xét lại thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết  tranh chấp của Hội đồng trọng tài, Hội đồng trọng tài cần xem xét khi một bên có khiếu nại. Tuy nhiên, vấn đề phân định thẩm quyền giữa Trọng tài viên và Tòa án trong trường hợp một bên gửi đơn khiếu nại lên cả Tòa án và Trọng tài vẫn chưa được làm rõ. 

- Thứ bảy, quy định về hủy quyết định trọng tài còn nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân khiến  số vụ hủy phán quyết  trọng tài  gia tăng  là do cơ chế hủy phán quyết  trọng tài quá đơn giản. Điều 50 của  lệnh nêu rõ “trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết  trọng tài, nếu một bên không đồng ý với phán quyết  trọng tài thì có quyền gửi đơn khởi kiện lên Tòa án cấp tỉnh nơi trọng tài viên tòa án đã ra phán quyết  trọng tài, yêu cầu hủy phán quyết  trọng tài". Điều này vô hình chung đã khuyến khích các bên nộp đơn yêu cầu hủy phán quyết  trọng tài vì nhiều mục đích khác nhau, trong đó có việc kéo dài thời gian thi hành phán quyết  trọng tài và nhanh chóng tẩu tán tài sản.  

- Thứ tám, vấn đề địa điểm xét xử luôn bất hợp lý: Pháp lệnh quy định đương sự có quyền thỏa thuận địa điểm giải quyết  tranh chấp; nếu không có thoả thuận thì Hội đồng trọng tài quyết định nhưng phải bảo đảm thuận lợi cho các bên trong việc giải quyết. Đây là một quy định khó áp dụng vào thực tế. Trong nhiều trường hợp, các bên ở những nơi khác nhau, hầu hết  ở các quốc gia khác nhau, vì vậy rất khó để dàn xếp một giải pháp "phù hợp cho cả hai bên". 

- Thứ chín, vấn đề cách tính thời hiệu khởi kiện chưa được quy định rõ ràng: mặc dù trình tự đã  quy định  thời hiệu khởi kiện ra Trọng tài là 2 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Tuy nhiên, trong trường hợp có tranh chấp, một bên đã khởi xướng trọng tài trong thời hạn quy định và việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài  được kết thúc bằng  quyết định của hội đồng trọng tài. Nhưng sau đó phán quyết của trọng tài đã bị Tòa án hủy bỏ. Như vậy, thời hiệu khởi kiện được tính từ  thời điểm, nếu thời hiệu giải quyết tranh chấp tại trọng tài có thể được trừ vào thời hiệu khởi kiện  chưa được quy định chính xác. 

- Thứ mười một, trình tự thời gian: Một số quy định của Pháp lệnh  quá chung chung. Ví dụ, Điều 24(3) cho phép thời hạn nộp đơn bào chữa của bị cáo là quá dài. Theo đó, bị đơn có thể nộp đơn bảo vệ vào bất kỳ thời điểm nào, miễn là trước ngày Hội đồng trọng tài mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp. Rất dễ bị một bên không trung thực lợi dụng để kéo dài quá trình phân xử. Cũng như vấn đề hoãn phiên họp giải quyết vụ tranh chấp được quy định tại Điều 41, theo đó, nếu có lý do chính đáng, các bên có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài hoãn phiên họp giải quyết vụ tranh chấp. Tuy nhiên, lệnh cũng không nêu rõ  lý do chính đáng là gì và  bao lâu nữa hội đồng trọng tài sẽ mở phiên họp để giải quyết  tranh chấp. 

Nhìn chung, mặc dù có quy định khá tiến bộ so với trước đây nhưng Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003  chưa  tạo được cơ sở pháp lý để thực hiện chủ trương khuyến khích thực hiện pháp luật trọng tài thương mại của Nhà nước ta sử dụng trọng tài để giải quyết các tranh chấp thương mại và  tranh chấp khác.  

Trên cơ sở kế thừa những điểm tiến bộ và vượt giới hạn  của Pháp lệnh Trọng tài năm 2003, ngày 17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Trọng tài thương mại năm 2011, 2010, gồm 13 chương, 82 điều. Luật mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011 và thay thế cho Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.  

III. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI, TRỌNG TÀI VIÊN VÀ TỔ CHỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI (Luật TTTM) 

1. Xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa Trọng tài, Tòa án theo quy định Luật TTTM (Điều 2 Luật TTTM và Điều 2 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20 tháng 3 năm 2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại) quy định

- Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài. 

- Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nêu trên nếu các bên có thoả thuận trọng tài, trừ trường hợp nêu tại đoạn 4 dưới đây.  

- Khi có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thì Tòa án yêu cầu một hoặc các bên cho biết tranh chấp đó các bên có thoả thuận trọng tài hay không. Tòa án phải kiểm tra, xem xét các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện để xác định vụ tranh chấp đó có thuộc trường hợp nêu tại đoạn 4 dưới đây không. Tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau: 

- Trường hợp tranh chấp không có thoả thuận trọng tài hoặc đã có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định, phán quyết có hiệu lực pháp luật của Trọng tài xác định vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài thì Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền. 

- Trường hợp tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp nêu tại đoạn 4 dưới đây thì Tòa án căn cứ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 (sau đây gọi tắt là BLTTDS) để trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện. 

- Trường hợp sau khi thụ lý vụ án Tòa án mới phát hiện vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này thì Tòa án căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện.  

- Trường hợp đã có yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp và Hội đồng trọng tài đang giải quyết vụ tranh chấp thì dù Tòa án nhận thấy tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài hoặc tuy đã có thoả thuận trọng tài nhưng thuộc trường hợp nêu tại đoạn 4 dưới đây mà người khởi kiện có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp Tòa án đã thụ lý thì ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trừ trường hợp Tòa án thụ lý vụ tranh chấp trước khi có yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp. Sau khi có quyết định, phán quyết của Hội đồng trọng tài quy định tại các điều 43, 58, 59 và 61 Luật TTTM mà người khởi kiện có yêu cầu Tòa án giải quyết, thì Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung. 

- Tranh chấp có thỏa thuận trọng tài nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác: 

+ Có quyết định của Tòa án hủy phán quyết trọng tài, hủy quyết định của Hội đồng trọng tài về việc công nhận sự thỏa thuận của các bên; 

+ Có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài quy định tại khoản 1 Điều 43 các điểm a, b, d và đ khoản 1 Điều 59 Luật TTTM; 

+ Tranh chấp thuộc trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 4 Nghị quyết này.  

 - Trường hợp các bên vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Tòa án mà các bên không có thỏa thuận lại hoặc thỏa thuận mới về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này mà phát sinh tranh chấp thì xử lý như sau: 

+ Trường hợp người khởi kiện yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp trước khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp khi Tòa án chưa thụ lý vụ án quy định tại điểm b khoản 4 Điều này thì Tòa án căn cứ quy định tại Điều 6 Luật TTTM để từ chối thụ lý, giải quyết. Trong trường hợp này, khi nhận được đơn khởi kiện Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện, nếu đã thụ lý vụ án thì căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện.  Trường hợp người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết  thì ngay sau khi nhận đơn, Tòa án phải xác định một trong các bên có yêu cầu Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp hay không. 

+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu khởi kiện, nếu Tòa án xác định có bị đơn, nguyên đơn yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì Tòa án chuyển đơn yêu cầu cho nguyên đơn và Tòa án. hoặc nếu nguyên đơn chưa yêu cầu Trọng tài giải quyết  thì Tòa án xem xét thụ lý giải quyết theo thủ tục chung. 

+ Trong trường hợp Tòa án đã thụ lý vụ án mà phát hiện tranh chấp đã  yêu cầu Trọng tài giải quyết trước thời điểm Tòa án thụ lý vụ án thì  căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS, Tòa án tiến hành giải quyết vụ án. ra quyết định đình chỉ tranh tụng, chỉ giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu  kèm theo đơn khởi kiện.  

2. Nguyên tắc và điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài (Điều 4 và 5 Luật TTTM) 

a) Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây

 - Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận này không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.  - Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật. 

  - Các bên xung đột bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. 

  - Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. 

  - Phán quyết trọng tài là phán quyết cuối cùng. d) Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài 

 - Tranh chấp sẽ được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên đã ký kết thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được ký kết trước hoặc sau khi phát sinh tranh chấp. 

  - Trong trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là thể nhân chết hoặc mất năng lực hành vi thì thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. 

  - Trong trường hợp một trong các bên của thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động,  phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì thỏa thuận trọng tài luôn có giá trị ràng buộc đối với tổ chức tiếp nhận các quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.  

3. Hình thức thỏa thuận trọng tài, quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng và tính độc lập của thỏa thuận trọng tài (Điều 16, 17, 19 Luật TTTM và Điều 7 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP) 

a) Hình thức thỏa thuận trọng tài 

- Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.  

- Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản: 

- Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật; 

- Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; 

- Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;

- Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác; 

- Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận. 

- Trường hợp có nhiều thỏa thuận trọng tài được xác lập đối với cùng một nội dung tranh chấp thì thỏa thuận trọng tài được xác lập hợp pháp sau cùng theo thời gian có giá trị áp dụng. 

- Trường hợp thỏa thuận trọng tài có nội dung không rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự để giải thích. Trường hợp có sự chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, hợp đồng mà trong  đó các bên đã xác lập thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì thỏa thuận trọng tài trong giao dịch, hợp đồng đó vẫn có hiệu lực đối với bên nhận chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng, trừ trường hợp có quy định khác đã đồng ý. bởi các bên. 

- Việc gộp nhiều quan hệ pháp luật có tranh chấp để giải quyết trong cùng một vụ án xảy ra khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: các bên thỏa thuận đưa nhiều quan hệ pháp luật có tranh chấp vào cùng một vụ án; Quy tắc trọng tài cho phép đưa nhiều quan hệ pháp luật có tranh chấp vào để giải quyết trong cùng một vụ việc. 

b) Quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng 

Đối với  tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ với người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ do nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ thỏa thuận trọng tài nhưng người tiêu dùng luôn có quyền lựa chọn trọng tài hoặc tòa án để giải quyết tranh chấp. Các nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ chỉ được phép khởi kiện  nếu được người tiêu dùng chấp thuận. 

c) Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài 

Thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc sửa đổi, gia hạn, chấm dứt hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu. 

4. Tòa án từ chối thụ lý vụ án nếu có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài vô hiệu (Điều 6, 18 Luật TTTM và Điều 6 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP) 

 a) Tòa án từ chối thụ lý vụ án trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài 

Trường hợp các bên tranh chấp đã đạt được thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện  thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.  

b) Thỏa thuận trọng tài vô hiệu

- Tranh chấp phát sinh trong  lĩnh vực ngoài thẩm quyền của Trọng tài. 

“Tranh chấp phát sinh trong  lĩnh vực ngoài thẩm quyền giải quyết của Trọng tài viên” là trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập để giải quyết tranh chấp không thuộc lĩnh vực quy định tại Điều 2 của Luật TTTM.  

- Người giao kết thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.  

Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật” là người xác lập thỏa thuận trọng tài khi không phải là người đại diện theo pháp luật hoặc  người được ủy quyền hợp pháp hoặc  người được ủy quyền hợp pháp nhưng ngoài phạm vi được ủy quyền. 

Về nguyên tắc, nếu thỏa thuận trọng tài được giao kết bởi người không đủ năng lực hành vi thì thỏa thuận trọng tài này vô hiệu. Trong trường hợp thỏa thuận trọng tài được giao kết bởi người không có thẩm quyền  nhưng trong quá trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong quá trình tố tụng trọng tài, người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận hoặc  biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài không vô hiệu. 

- Người giao kết thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự. “Người giao kết thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự” quy định tại khoản 3 điều 18 luật TTTM là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc  bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này, Tòa án phải thu thập chứng cứ để chứng minh người đã thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy tờ, tài liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền. tòa án xác định hoặc tuyên bố người này mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. 

- Hình thức của thỏa thuận trọng tài không tuân thủ quy định.  

- Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và  yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài  vô hiệu.  

 “Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài” là trường hợp một trong các bên bị lừa dối, đe dọa hoặc ép buộc theo quy định tại Khoản 4 Điều 132 của Luật này. 

- Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của  luật.  

 “Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của  luật” được định nghĩa là thỏa thuận trong trường hợp quy định tại Điều 128 BLDS. 

5. Xác định Tòa án có thẩm quyền trong hoạt động trọng tài (Điều 7 Luật TTTM và Điều 5 Nghị quyết  01/2014/NQ-HĐTP) 

5.1. Trong trường hợp các bên đã  thỏa thuận lựa chọn một tòa án cụ thể thì tòa án có thẩm quyền là tòa án do các bên lựa chọn.  

5.2. Trường hợp các bên không  thỏa thuận lựa chọn Tòa án thì thẩm quyền của Tòa án được xác định như sau

a) Đối với việc chỉ định trọng tài viên để thành lập hội đồng trọng tài vụ việc, thẩm quyền xét xử là  nơi cư trú của bị đơn nếu bị đơn là thể nhân, hoặc nơi đăng ký văn phòng của bị đơn nếu bị đơn là người Thể chất. tổ chức. Trong trường hợp có nhiều bị cáo, cơ quan tài phán có thẩm quyền là  nơi cư trú hoặc ngồi của một trong các bị cáo. 
Trong trường hợp bị đơn có nơi cư trú, trụ sở đăng ký ở nước ngoài thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú, nơi đăng ký của nguyên đơn; 

b) Đối với việc thay đổi Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc thì Tòa án có thẩm quyền là  nơi Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp.  
“Nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp” được  định nghĩa theo quy định tại Khoản 8 Điều 3 Luật TTTM, tức là nơi Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp. Nơi hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo  thỏa thuận  của các bên hoặc do trọng tài lựa chọn tribunal Hội đồng trọng tài quyết định nếu các bên không đồng ý. Nếu địa điểm giải quyết tranh chấp diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam thì phán quyết  được coi là đã được lập tại Việt Nam, không phụ thuộc vào nơi Hội đồng trọng tài tổ chức họp để ra phán quyết đó. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn  địa điểm giải quyết tranh chấp và Hội đồng trọng tài không xác định hoặc xác định rõ địa điểm giải quyết tranh chấp thì nguyên đơn phải xuất trình tài liệu, chứng cứ chứng minh. Trường hợp họ không chứng minh được thì Tòa án hướng dẫn họ yêu cầu Hội đồng trọng tài xác định. Tòa án căn cứ vào kết quả xác định nơi giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài để xem xét, quyết định việc thụ lý theo quy định của pháp luật. 

c) Đối với yêu cầu giải quyết khiếu kiện đối với quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực thi hành hoặc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì cơ quan có thẩm quyền là Tòa án trọng tài, nơi xét xử trọng tài trọng tài đưa ra phán quyết của mình.
Nơi hội đồng trọng tài đưa ra quyết định của mình” được xác định theo quyết định của hội đồng trọng tài. Trong trường hợp quyết định của Hội đồng trọng tài không quy định hoặc không xác định rõ  nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định thì nguyên đơn phải nộp  tài liệu, chứng cứ chứng minh. Trường hợp họ không chứng minh được thì Tòa án hướng dẫn họ yêu cầu Hội đồng trọng tài xác định. Tòa án căn cứ vào kết quả phán quyết của hội đồng trọng tài để xem xét và quyết định việc thụ lý theo quy định của pháp luật. 

Trường hợp nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định  ở nước ngoài thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi bị đơn cư trú hoặc  có trụ sở  tại Việt Nam. Trong trường hợp bị đơn có nơi cư trú hoặc trụ sở đăng ký ở nước ngoài thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi nguyên đơn cư trú hoặc  có trụ sở đăng ký. 

d) Đối với yêu cầu của Tòa án về việc thu thập chứng cứ thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi tiến hành lấy chứng cứ; 
đ) Đối với yêu cầu  áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì cơ quan có thẩm quyền là  nơi phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; 

e) Đối với việc triệu tập người làm chứng, Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú của người làm chứng; 
g) Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc thì Tòa án có thẩm quyền là  nơi đã ra phán quyết trọng tài của Hội đồng trọng  tài.  “Nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài” được xác định theo phán quyết của Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp phán quyết của Hội đồng trọng tài không quy định hoặc không xác định rõ  nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài thì nguyên đơn phải nộp  tài liệu, chứng cứ chứng minh. Trường hợp họ không chứng minh được thì Tòa án hướng dẫn họ yêu cầu Hội đồng trọng tài xác định. Tòa án căn cứ vào kết quả phán quyết của hội đồng trọng tài để xem xét và quyết định việc thụ lý theo quy định của pháp luật. 
Trường hợp nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài ở nước ngoài thì Toà án có thẩm quyền là Tòa án nơi bị đơn cư trú hoặc có trụ sở tại Việt Nam. Trong trường hợp bị đơn có nơi cư trú hoặc trụ sở đăng ký ở nước ngoài thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi nguyên đơn cư trú hoặc  có trụ sở đăng ký. 

5.3. Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài quy định tại khoản 5.1 và  5.2 nêu trên là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.  

5.4. Các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn một trong các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam để giải quyết vụ việc liên quan đến hoạt động kinh doanh trọng tài tại Việt Nam. Việc thỏa thuận lựa chọn Tòa án có thẩm quyền phải được lập thành văn bản, trong đó phải ghi rõ loại vụ án mà Tòa án yêu cầu  giải quyết, tên Tòa án mà các bên lựa chọn. 

Trong trường hợp các bên có thỏa thuận  không phù hợp với quy định tại khoản 3 nêu trên  thì thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động trọng tài được xác định theo quy định tại khoản 2 nêu trên về thẩm quyền xét xử của Tòa án và quy định của pháp luật. của luật này. tại Điều 5.3 của Tòa án này về thẩm quyền theo cấp của Tòa án.  Ví dụ, nếu các bên thỏa thuận  chọn Tòa án nhân dân quận X để giải quyết yêu cầu triệu tập người làm chứng thì việc thỏa thuận này  trái với quy định tại khoản 5.3 nêu trên. Tòa án không chấp nhận thỏa thuận lựa chọn này của các bên và thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án  được xác định theo quy định tại điểm đ khoản 5.2 và khoản 5.3 nêu trên.  

5.5. Các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Tòa án có thẩm quyền để phân xử trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Việc thỏa thuận lựa chọn Tòa án tiến hành hoạt động trọng tài phải bảo đảm  nguyên tắc chỉ có một Tòa án có thẩm quyền đối với một hoạt động trọng tài hoặc đối với tất cả các hoạt động trọng tài. 

5.6. Xác định tòa án có thẩm quyền xét xử yêu cầu chỉ định trọng tài viên để thành lập hội đồng trọng tài vụ việc.  

a) Trong trường hợp có yêu cầu chỉ định Trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc nhưng có nhiều bị đơn thì người nộp đơn có quyền lựa chọn yêu cầu khởi kiện tại một trong các Tòa án nơi  một trong các bị đơn cư trú hoặc có văn phòng đăng ký của nó. Khi một hoặc các bị đơn cư trú hoặc có trụ sở ở nước ngoài thì nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án nơi cư trú, nơi có trụ sở của nguyên đơn. 
b) Khi nhận được yêu cầu chỉ định trọng tài viên để thành lập hội đồng trọng tài vụ việc, hội đồng trọng tài phải giải thích cho người nộp đơn  biết rằng chỉ có một tòa án trong số các tòa án  quy định tại điểm Đến. Khoản 2, Mục 7 của Đạo luật Trung tâm mua sắm có  quyền hài lòng với lựa chọn của họ. Tòa án mà họ lựa chọn phải yêu cầu họ cam kết trong đơn yêu cầu  không nộp đơn yêu cầu tại các tòa án khác. 
c) Trường hợp nguyên đơn gửi đơn yêu cầu đến nhiều Tòa án khác nhau và các Tòa án đều thụ lý thì Tòa án  thụ lý đầu tiên  có thẩm quyền giải quyết.  Tòa án nhận được các đơn sau đây thì giải quyết như sau: 
c1) Trường hợp không được chấp nhận thì căn cứ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 168 và Điều 311 của BLTTDS  trả lại đơn yêu cầu, tài liệu, chứng từ và tiền tạm ứng chi phí cho người gửi đơn. nộp.  

c2) Nếu đã được chấp nhận thì căn cứ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 168, điểm i khoản 1 Điều 192 và Điều 311  BLTTDS  ra quyết định đình chỉ việc xét  yêu cầu, xóa tên của trường hợp này vào sổ thụ lý và trả lại đơn yêu cầu  kèm theo hồ sơ, tài liệu chứng minh cho người nộp đơn. Tiền tạm ứng án phí được Tòa án trả lại cho người đã nộp. 

c3) Trường hợp có nhiều Tòa án  ra quyết định chỉ định Trọng tài viên thì  quyết định của Tòa án về việc chỉ định Trọng tài viên  do nguyên đơn lựa chọn và được thông báo cho người bị kiện đầu tiên vào từng thời điểm. Trong trường hợp này, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 39 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án thì nguyên đơn vẫn phải chịu chi phí yêu cầu Tòa án chỉ định Trọng tài viên theo quyết định chỉ định Trọng tài viên của Tòa án. tất cả các tòa án theo yêu cầu của nguyên đơn. 

6. Xác định cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài (Điều 8 Luật TTTM) 

- Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết.  

- Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành quyết định của Hội đồng trọng tài về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời  là cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. 

7. Thương lượng và hòa giải trong tố tụng trọng tài (Điều 9 của Đạo luật trung tâm mua sắm) 

Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có quyền tự do thương lượng, thỏa thuận  về việc giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu Hội đồng trọng tài hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp.  

8. Ngôn ngữ và địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài (Điều 9 và 10 Luật TTTM) 

- Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài là tiếng Việt, trừ trường hợp tranh chấp có ít nhất một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu bên tranh chấp không sử dụng được tiếng Việt thì có thể lựa chọn  phiên dịch viên tiếng Việt.  

- Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, tranh chấp mà ít nhất một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài do các bên thỏa thuận. Nếu các bên không đồng ý, ngôn ngữ được sử dụng trong tố tụng trọng tài sẽ do hội đồng trọng tài quyết định.   

b) Địa điểm giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài 
- Các bên có quyền thỏa thuận địa điểm giải quyết tranh chấp; trường hợp không có thoả thuận thì Hội đồng trọng tài quyết định. Địa điểm giải quyết tranh chấp có thể ở trong lãnh thổ Việt Nam hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam.  

- Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, Hội đồng trọng tài có thể tiến hành phiên họp tại địa điểm được xem là thích hợp cho việc trao đổi ý kiến giữa các thành viên của Hội đồng trọng tài, việc lấy lời khai của người làm chứng, tham vấn ý kiến các chuyên gia hoặc tiến hành việc giám định hàng hoá, tài sản hoặc tài liệu khác.  

9. Gửi thông báo và trình tự gửi thông báo (Điều 12 Luật TTTM) 

Nếu các bên không có thỏa thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không quy định khác, cách thức và trình tự gửi thông báo trong tố tụng trọng tài được quy định như sau: 

- Các bản giải trình, văn thư giao dịch và tài liệu khác của mỗi bên phải được gửi tới Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài với số bản đủ để mỗi thành viên trong Hội đồng trọng tài có một bản, bên kia một bản và một bản lưu tại Trung tâm trọng tài; 

- Các thông báo, tài liệu mà Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài gửi cho các bên được gửi đến địa chỉ của các bên hoặc gửi cho đại diện của các bên theo đúng địa chỉ do các bên thông báo; 

- Các thông báo, tài liệu có thể được Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài gửi bằng phương thức giao trực tiếp, thư bảo đảm, thư thường, fax, telex, telegram, thư điện tử hoặc bằng phương thức khác có ghi nhận việc gửi này; 

- Các thông báo, tài liệu do Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài gửi được coi là đã nhận được vào ngày mà các bên hoặc đại diện của các bên đã nhận hoặc được coi là đã nhận nếu thông báo, tài liệu đó đã được gửi phù hợp với quy định tại khoản 2 nêu trên;

 - Thời hạn nhận thông báo, tài liệu được tính kể từ ngày tiếp theo ngày được coi là đã nhận thông báo, tài liệu. Nếu ngày hôm sau là ngày nghỉ lễ hoặc ngày nghỉ lễ theo quy định của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nơi nhận được thông báo hoặc văn bản thì thời hạn này  được tính từ ngày làm việc đầu tiên tiếp theo. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn này là ngày nghỉ lễ hoặc ngày nghỉ lễ theo quy định của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nơi nhận được thông báo hoặc văn bản, thì thời hạn sẽ là cuối ngày làm việc đầu tiên tiếp theo.  

10. Mất quyền phản đối (Điều 13 Luật TTTM và Điều 6 Nghị quyết  01/2014/NĐ-CP) 

Nếu một bên phát hiện hành vi vi phạm quy định của Luật Thương mại hoặc thỏa thuận trọng tài nhưng vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng trọng tài và không phản đối hành vi vi phạm trong thời hạn quy định của Luật này thì bên đó mất quyền phản đối trọng tài hoặc tòa án. 

Trong trường hợp một bên phát hiện có hành vi vi phạm quy định của Luật TTTM hoặc  thỏa thuận trọng tài thì tiếp tục tiến hành tố tụng trọng tài và không được phản đối  Hội đồng trọng tài hoặc Trung tâm trọng tài về hành vi vi phạm đó trong thời hạn. .do luật trung tâm cung cấp, họ mất quyền phản đối trước trọng tài hoặc tòa án vì những vi phạm đã biết. Trong trường hợp pháp luật về TTTM không quy định thời hạn thì thời hạn đó được xác định theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy tắc  trọng tài. Nếu các bên không thỏa thuận hoặc quy tắc  trọng tài không quy định thì việc phản đối phải được đưa ra trước thời điểm Hội đồng trọng tài tuyên phán quyết. 

Trước khi xem xét yêu cầu của một bên hoặc các bên về việc  vi phạm quy định của Đạo luật trung tâm thương mại hoặc thỏa thuận trọng tài, Tòa án phải xem xét các tài liệu, chứng cứ và quy tắc  trọng tài để xác định yêu cầu đó, bên nào mất quyền phản đối hoặc không thua kiện. quyền phản đối. 

Trong trường hợp Tòa án xác định bên vi phạm đã mất quyền phản đối theo quy định  trên thì bên  mất quyền phản đối không có quyền kháng cáo quyết định của Hội đồng trọng tài hoặc yêu cầu hủy  quyết định của Trọng tài. giải thưởng cho vi phạm. mất quyền phản đối. Tòa án không thể căn cứ vào hành vi vi phạm mà một hoặc các bên đã mất quyền phản đối để quyết định chấp nhận yêu cầu của một hoặc các bên.  Khi giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án có trách nhiệm xem xét theo quy định “Phán quyết trọng tài trái  nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” và “Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài”. Theo các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh, thu thập chứng cứ để quyết định hủy  phán quyết trọng tài hay không. Trong trường hợp xét thấy có đủ căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu thì Tòa án có quyền quyết định kể cả khi một hoặc các bên  mất quyền phản đối. 

11. Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp (Điều 14 Luật TTTM) 

- Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp.  

 - Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không thoả thuận được luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất.  - Trong trường hợp pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài có thể áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó là không trái ngược. nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

12. Trọng tài

12.1. Tiêu chí cho trọng tài viên (Điều 20 của Đạo luật Trung tâm mua sắm) 

Người có đủ các tiêu chuẩn sau đây được làm Trọng tài viên: có đầy đủ năng lực hành vi dân sự  theo quy định của Bộ luật Dân sự; Có bằng đại học và có thời gian công tác trong ngành  học từ 5 năm trở lên; Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao, có  kinh nghiệm thực tế, kể cả khi không đáp ứng các điều kiện quy định tại điểm b khoản này, cũng có thể được lựa chọn làm Trọng tài viên. 

Người có đủ các tiêu chuẩn  trên nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây không được làm Trọng tài viên:  Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, Công chức Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án; người đang là bị can, bị cáo,  đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp hành xong hình phạt mà chưa được xóa án tích. 

Trung tâm Trọng tài có thể áp đặt các tiêu chuẩn cao hơn  đối với các trọng tài viên của  mình.  12.2. Quyền và nghĩa vụ của trọng tài viên (Điều 20 của Đạo luật TTTM) 

 Trọng tài viên có các quyền và nghĩa vụ sau đây: 

 - Chấp nhận hoặc từ chối giải quyết tranh chấp. 

  - Độc lập trong việc giải quyết tranh chấp. 

  - Từ chối cung cấp  thông tin liên quan đến  tranh chấp. 

  - Chế độ đãi ngộ. 

 - Giữ bí mật nội dung  tranh chấp mà mình giải quyết, trừ trường hợp phải cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo các điều kiện do pháp luật quy định.

- Đảm bảo giải quyết tranh chấp khách quan, nhanh chóng, kịp thời. 

 - Tôn trọng quy tắc đạo đức nghề nghiệp.  

12.3. Hiệp hội trọng tài (Điều 20 của Đạo luật trung tâm mua sắm) 

Hiệp hội trọng tài là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của các trọng tài viên và trung tâm trọng tài trong phạm vi cả nước. Việc thành lập và hoạt động của Hiệp hội trọng tài phải tuân thủ các quy định của pháp luật về hiệp hội nghề nghiệp. 

12.4. Xử phạt  vi phạm quy chế hoạt động của trọng tài  

Điều 27 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực  trợ giúp pháp lý; hành chính tư pháp; Hôn nhân và Gia đình; đơn dân sự; Doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản quy định mức phạt  vi phạm quy chế hoạt động của trọng tài viên như sau: 

Đầu tiên. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: 

a) Giải quyết tranh chấp mà Trọng tài viên là người thân thích hoặc  đại diện của các bên  tranh chấp; 
b) Giải quyết tranh chấp trong trường hợp Trọng tài viên có lợi ích liên quan trong  tranh chấp; 
c) Giải quyết tranh chấp trong trường hợp Trọng tài viên đã là người hòa giải, đại diện, luật sư cho một  bên trước khi đưa  tranh chấp  ra giải quyết tại Trọng tài, trừ trường hợp  các bên có thỏa thuận khác bằng văn bản; 
d) Giải quyết tranh chấp khi có lý do rõ ràng để chứng minh trọng tài viên không vô tư, khách quan.  
Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: 
a) Tiết lộ bí mật về nội dung  tranh chấp mà mình đang giải quyết, trừ trường hợp phải cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; 
b) Tiến hành hoạt động trọng tài thương mại khi chưa đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện làm trọng tài viên. 
Biện pháp khắc phục: 
Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại  khoản 1 và khoản 2 Điều này. 

13. Trung tâm trọng tài 

13.1. Chức năng của trung tâm trọng tài và điều kiện thành lập trung tâm trọng tài (Điều 23, 24 Luật TTTT) 

a) Chức năng của Trung tâm trọng tài 

Chức năng của trung tâm trọng tài là tổ chức và điều phối các hoạt động giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài quy định và hỗ trợ các trọng tài viên về  hành chính, quản trị và các hỗ trợ  khác trong quá trình tố tụng trọng tài. 

b) Điều kiện thành lập trung tâm trọng tài 

Trung tâm trọng tài được thành lập khi có ít nhất năm thành viên sáng lập  là công dân Việt Nam đáp ứng đủ điều kiện làm trọng tài viên quy định tại Điều 20 của Luật này  và có giấy phép do Bộ Tư pháp cấp. 

13.2. Đăng ký hoạt động, công bố thành lập trung tâm trọng tài (Điều 25, 27, 27 luật TTTM) 

 a) Ghi nhận hoạt động của Trung tâm trọng tài 

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày  được cấp Giấy phép thành lập, Trung tâm trọng tài phải đăng ký hoạt động với Bộ Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt Trung tâm trọng tài. Sau thời hạn này, nếu Trung tâm trọng tài không đăng ký thì giấy phép không còn giá trị. Bộ Tư pháp cấp Giấy đăng ký hoạt động cho Trung tâm trọng tài trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đơn đăng ký. 

b) Thông báo thành lập Trung tâm trọng tài 

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động, Trung tâm trọng tài phải đăng báo hàng ngày của trung ương hoặc báo địa phương nơi đăng ký hoạt động trong ba số liên tiếp về các nội dung chính sau đây: đây: tên, địa chỉ trụ sở đăng ký của trung tâm trọng tài; lĩnh vực hoạt động của Trung tâm trọng tài; số giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, cơ quan cấp, ngày, tháng, năm cấp; ngày bắt đầu hoạt động của trung tâm trọng tài.  

Trung tâm trọng tài phải niêm yết tại trụ sở của mình nội dung trên và danh sách trọng tài viên của Trung tâm trọng tài. 

c) Địa vị pháp lý và cơ cấu tổ chức của Trung tâm trọng tài 

Trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân,  con dấu và tài khoản riêng. Trung tâm trọng tài hoạt động phi lợi nhuận. Trung tâm trọng tài được thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài. 

Trung tâm trọng tài có ban giám đốc và ban thư ký. Cơ cấu, bộ máy của Trung tâm trọng tài do Điều lệ của Trung tâm quy định. Ban điều hành của Trung tâm trọng tài gồm có Chủ tịch, một hoặc nhiều Phó Chủ tịch, có thể có Tổng thư ký do Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định. Chủ tịch Trung tâm Trọng tài là Trọng tài viên. Trung tâm trọng tài có danh sách trọng tài viên.  

13.3. Quyền và nghĩa vụ của trung tâm trọng tài (Điều 28 của Đạo luật trung tâm mua sắm) 

Trung tâm trọng tài có các quyền và nghĩa vụ sau đây: 

- Xây dựng điều lệ, quy chế nội bộ của Trung tâm trọng tài phù hợp với  quy định của luật này.  

- Xây dựng tiêu chuẩn trọng tài  và quy trình tuyển chọn, lập danh sách trọng tài, xóa tên trọng tài khỏi danh sách trọng tài  của tổ chức mình.  

- Gửi danh sách Trọng tài viên và việc sửa đổi  danh sách Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài cho Bộ Tư pháp để công bố. 

- Chỉ định trọng tài viên  thành lập hội đồng trọng tài trong các trường hợp quy định của luật này.  - Cung cấp  trọng tài, hòa giải và các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại khác theo quy định của pháp luật. 

- Cung cấp các dịch vụ hành chính, văn thư và các dịch vụ khác để giải quyết tranh chấp.  

- Thu phí trọng tài và các khoản phí pháp lý khác  liên quan đến hoạt động trọng tài.  

- Trả thù lao và các chi phí khác cho Trọng tài viên. 

- Tổ chức tập huấn nâng cao trình độ, kỹ năng giải quyết tranh chấp cho trọng tài viên.  

- Báo cáo định kỳ hằng năm về hoạt động của Trung tâm trọng tài với Sở Tư pháp nơi Trung tâm trọng tài đăng ký hoạt động.  

- Lưu trữ hồ sơ, cung cấp các bản sao quyết định trọng tài theo yêu cầu của các bên tranh chấp hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền.  

13.4. Một số quy định về tên gọi, điều lệ, chi nhánh , Văn phòng đại diện của Trung tâm trọng tài; công bố, thay đổi danh sách trọng tài viên, thông tin về tổ chức, hoạt động trọng tài thương mại 

a) Tên của Trung tâm trọng tài, Chi nhánh, Văn phòng đại diện của Trung tâm trọng tài (Điều 6 Nghị định số 63/2011/NĐ-CP ngày 28 tháng 7 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại) 
- Tên của Trung tâm trọng tài được viết bằng tiếng Việt do các sáng lập viên lựa chọn nhưng phải bao gồm cụm từ “Trung tâm trọng tài” và không trùng, không gây nhầm lẫn với tên của Trung tâm trọng tài, Chi nhánh, Văn phòng đại diện của Trung tâm trọng tài đã được cấp Giấy phép thành lập, không vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. 

Trong trường hợp Trung tâm trọng tài có tên bằng tiếng nước ngoài thì tên gọi đó phải là tên được dịch từ tên bằng tiếng Việt sang tiếng nước ngoài, không trùng, không gây nhầm lẫn với tên của tổ chức trọng tài khác đang hoạt động tại Việt Nam. 

- Trung tâm trọng tài có thể có biểu tượng, nhưng không được sử dụng Quốc kỳ, Đảng kỳ, Quốc huy, hình ảnh lãnh tụ, hình ảnh đồng tiền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam làm biểu tượng của mình. 

- Tên của Chi nhánh của Trung tâm trọng tài phải bao gồm cụm từ “Chi nhánh” và tên của Trung tâm trọng tài.  

- Tên của Văn phòng đại diện của Trung tâm trọng tài phải bao gồm cụm từ “Văn phòng đại diện” và tên của Trung tâm trọng tài.  

b) Điều lệ của Trung tâm trọng tài (Điều 7 Nghị định số 63/2011/NĐ-CP) 
Điều lệ của Trung tâm trọng tài bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây: 

- Tên của Trung tâm trọng tài; tên nước ngoài của Trung tâm trọng tài (nếu có); 

- Trụ sở chính; 

- Lĩnh vực, mục tiêu hoạt động; 

- Thời gian hoạt động; 

- Điều kiện cơ sở vật chất và nguồn tài chính, chế độ tài chính của Trung tâm trọng tài; 

- Cơ cấu tổ chức, cơ chế quản trị, tổ chức lại, giải thể Trung tâm trọng tài, cơ chế giải quyết tranh chấp nội bộ của Trung tâm trọng tài; 

- Người đại diện theo pháp luật của Trung tâm trọng tài, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật; 

- Danh sách các sáng lập viên; phương thức thay đổi sáng lập viên của Trung tâm trọng tài; điều kiện kết nạp, khai trừ trọng tài viên; quyền và nghĩa vụ của trọng tài viên; 

- Chế độ lưu trữ hồ sơ, tài liệu; 

- Thể thức thông qua điều lệ; 

- Thể thức công bố Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài; 

- Những nội dung khác phù hợp với quy định của pháp luật.

c) Chi nhánh của Trung tâm trọng tài (Điều 9 Nghị định số 63/2011/NĐ-CP) 
- Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của Trung tâm trọng tài, hoạt động phù hợp với lĩnh vực hoạt động ghi trong Giấy phép thành lập của Trung tâm trọng tài. 

- Trung tâm trọng tài phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của Chi nhánh. Trung tâm Trọng tài chỉ định một Trọng tài viên là Trưởng Chi nhánh. 

d) Chi nhánh, văn phòng đại diện của Trung tâm trọng tài được thành lập ở nước ngoài (Điều 14 Nghị định số 63/2011/NĐ-CP) 
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày  cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho phép thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện của Trung tâm trọng tài ở nước ngoài hoặc kể từ ngày chấm dứt hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện của Trung tâm trọng tài ở nước ngoài. văn phòng đại diện ở nước ngoài,  Trung tâm trọng tài phải thông báo bằng văn bản cho Bộ Tư pháp hoặc Sở Tư pháp nơi  đăng ký hoạt động. 

đ) Pháp lệnh, thủ tục công bố, sửa đổi danh sách Trọng tài viên, thông tin về tổ chức và hoạt động của Trọng tài thương mại (Điều 19 Nghị định số 63/2011/NĐ-CP) 

- Trung tâm trọng tài, chi nhánh của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam phải gửi danh sách Trọng tài viên cho Bộ Tư pháp trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập hoặc kể từ ngày sửa đổi  danh sách Trọng tài viên.  

Định kỳ hàng tháng, Bộ Tư pháp cập nhật và đăng tải danh sách Trọng tài viên trên Trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp. Việc công bố danh sách trọng tài viên chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin và không ảnh hưởng đến tư cách của trọng tài viên.  

- Trung tâm trọng tài, Chi nhánh của Tổ chức trọng tài nước ngoài thay đổi danh sách Trọng tài viên, thì trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày quyết định thay đổi phải thông báo bằng văn bản cho Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp, nơi Trung tâm trọng tài, Chi nhánh của Tổ chức trọng tài nước ngoài đăng ký hoạt động. 

- Bộ Tư pháp thực hiện công bố trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp về việc thành lập tổ chức trọng tài, thu hồi Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động, chấm dứt hoạt động và các thông tin cần thiết về tổ chức, hoạt động trọng tài thương mại.  

13.5. Chấm dứt hoạt động của Trung tâm trọng tài (Điều 29 Luật TTTM, Điều 15,16 Nghị định số 63/2011/NĐ-CP) 

Hoạt động của Trung tâm trọng tài chấm dứt trong các trường hợp sau đây: 

a) Các trường hợp được quy định tại điều lệ của Trung tâm trọng tài; 
Trong trường hợp chấm dứt hoạt động theo Điều lệ của Trung tâm trọng tài thì chậm nhất là 30 ngày trước thời điểm chấm dứt hoạt động, Trung tâm trọng tài phải thông báo bằng văn bản về việc chấm dứt hoạt động cho Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp, nơi Trung tâm trọng tài đăng ký hoạt động; đăng báo hàng ngày của Trung ương hoặc báo địa phương nơi đăng ký hoạt động trong ba số liên tiếp về việc chấm dứt hoạt động. 

Trung tâm trọng tài phải thanh toán xong các khoản nợ và hoàn tất các vụ việc đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.  

Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày hoàn tất các thủ tục, Trung tâm trọng tài báo cáo bằng văn bản về việc hoàn tất các thủ tục đó cho Bộ Tư pháp.  Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của Trung tâm trọng tài, Bộ Tư pháp ra quyết định đình chỉ hoạt động của Trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài trả lại Giấy phép thành lập cho Bộ Tư pháp, Giấy đăng ký hoạt động cho Bộ Tư pháp nơi Trung tâm trọng tài đã đăng ký hoạt động và trả lại con dấu cho cơ quan có thẩm quyền. 

b) Bị thu hồi Giấy phép thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 
Trung tâm trọng tài bị thu hồi Giấy phép thành lập hoặc Giấy đăng ký hoạt động trong các trường hợp sau đây: 

- Trung tâm trọng tài đã vi phạm  bị xử phạt  hành chính mà tái phạm; 

- Trung tâm trọng tài không thực hiện bất kỳ hoạt động nào quy định tại Điều lệ hoặc Giấy phép thành lập trong thời hạn 05 năm liên tục, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động; 

- Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày  được cấp Giấy phép thành lập, Trung tâm trọng tài không phải đăng ký hoạt động với Bộ Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt Trung tâm trọng tài. - Trung tâm trọng tài không được sửa đổi, bổ sung điều lệ, quy tắc tố tụng trọng tài của mình theo quy định của Luật trọng tài thương mại trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày Luật trọng tài thương mại có hiệu lực. Trường hợp tổ chức, cá nhân phát hiện Trung tâm trọng tài  bị thu hồi Giấy phép thành lập thì phải thông báo cho Sở Tư pháp nơi đặt trụ sở chính của Trung tâm 'trọng tài'. Sở Tư pháp có trách nhiệm tiến hành rà soát, xác minh. 

Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày Bộ Tư pháp thông báo Trung tâm trọng tài  bị thu hồi Giấy phép thành lập, Bộ Tư pháp phải có văn bản đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi Giấy phép thành lập. được nêu rõ ràng cùng với các tài liệu hỗ trợ (nếu có).  

Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định thu hồi ủy quyền thành lập  Trung tâm trọng tài. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ra quyết định thu hồi Giấy phép kinh doanh, Trung tâm trọng tài phải nộp lại Giấy phép kinh doanh cho Bộ Tư pháp.  Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày quyết định thu hồi Giấy phép thành lập  Trung tâm trọng tài có hiệu lực,  Trung tâm trọng tài phải nộp lại Giấy đăng ký hoạt động cho Bộ Tòa án nơi cấp Giấy đăng ký hoạt động. 

Trường hợp trụ sở của Trung tâm trọng tài  vi phạm hành chính đã bị xử phạt vi phạm hành chính  thì bị thu hồi Giấy đăng ký hoạt động. Chi nhánh  Trung tâm trọng tài bị thu hồi Giấy phép thành lập phải nộp lại Giấy đăng ký hoạt động của Chi nhánh cho Bộ Tư pháp nơi cấp Giấy đăng ký hoạt động. 

Trường hợp phát hiện Trung tâm trọng tài, Chi nhánh sắp bị thu hồi Giấy đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật, trong thời hạn 15 ngày làm việc, Bộ Tư pháp nơi đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Trung tâm trọng tài có trách nhiệm: Trung tâm trọng tài, Chi nhánh có trách nhiệm: thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. 

Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày quyết định thu hồi Giấy đăng ký hoạt động  hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực thi hành, Trung tâm trọng tài, Chi nhánh phải nộp lại Giấy đăng ký hoạt động  cho Bộ Tư pháp nơi đặt Giấy đăng ký hoạt động. được ban hành. 13.6. Chấm dứt hoạt động chi nhánh. Văn phòng đại diện Trung tâm trọng tài (Điều 18 Nghị định số 63/2011/NĐ-CP) 

Chi nhánh của Trung tâm trọng tài chấm dứt hoạt động trong các trường hợp sau đây: 

- Theo quyết định của Trung tâm trọng tài về việc chấm dứt hoạt động của chi nhánh; 

- Trung tâm trọng tài tự chấm dứt hoạt động hoặc bị thu hồi giấy phép thành lập; 

- Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chi nhánh theo quy định của pháp luật. 

Chậm nhất  30 ngày trước khi kết thúc hoạt động của chi nhánh, Trung tâm trọng tài tạo ra chi nhánh phải thông báo bằng văn bản cho Bộ Tư pháp, Tổng cục Tư pháp về địa điểm đặt trụ sở của Trung tâm trọng tài và hướng xử lý của pháp luật. của nơi đặt chi nhánh khi kết thúc các hoạt động của chi nhánh.  

Trung tâm trọng tài phải thanh toán đầy đủ các khoản nợ và hoàn thiện các hồ sơ mà Ban quản lý đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày chấm dứt hoạt động của chi nhánh, Trung tâm trọng tài phải nộp lại Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh cho Bộ Tư pháp nơi đăng ký hoạt động của chi nhánh; trả lại con dấu cho cơ quan có thẩm quyền. Văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động theo quyết định của Trung tâm trọng tài. Chậm nhất 10 ngày làm việc trước khi chấm dứt hoạt động của Văn phòng đại diện, Trung tâm trọng tài phải thông báo về việc chấm dứt hoạt động của Văn phòng đại diện cho Bộ Tư pháp nơi đặt Trung tâm trọng tài và Bộ Tư pháp nơi đặt văn phòng đại diện văn phòng được đặt

 

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (308 lượt)

    Để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Email không được để trống

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo