
1. Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 có hiệu lực khi nào?
BLTTHS năm 2015 có nhiều quy định mới (số điều luật tăng thêm 154 điều, bổ sung 176 điều mới, sửa đổi 317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26 điều) với một số vấn đề chính sau đây:- Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp; tăng quyền, trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán.- Mở rộng diện người tham gia tố tụng; bổ sung diện người tham gia tố tụng, một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra; quy định rõ quyền hạn, nhiệm vụ của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra.
- Bổ sung quyền của những người tham gia tố tụng theo hướng mở rộng hơn diện người tham gia tố tụng
- Điều chỉnh khái niệm chứng cứ, nguồn, thu thập chứng cứ; xử lý chặt chẽ hơn về vật chứng.
Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 cũng quy định về rút ngắn thời hạn tạm giam, việc gia hạn tạm giam cùng nhiều bổ sung về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong vụ án hình sự...
Theo Nghị quyết số 110/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội khóa XIII (NQ 110/2015), kể từ ngày 01/7/2016 thì BLTTHS năm 2015 có hiệu lực:
1. Đối với những vụ án do Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án đang thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự số 19/2003/QH11 (sau đây gọi là BLTTHS năm 2003) nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc thì thẩm quyền giải quyết tiếp tục được áp dụng theo quy định của BLTTHS năm 2003 cho đến khi kết thúc vụ án, còn các vấn đề khác được thực hiện theo quy định của BLTTHS năm 2015.
2. Đối với những tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đang trong quá trình kiểm tra, xác minh nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc thì thời hạn giải quyết được tính theo thời hạn của BLTTHS năm 2015.
3. Đối với những bị can, bị cáo đang bị tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2003 nhưng đến ngày 01/7/2016 không được tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2015 hoặc thời hạn tạm giam vượt quá thời hạn theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì Viện Kiểm sát, Tòa án quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam đang áp dụng hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của BLTTHS năm 2015.
4. Đối với những vụ án hình sự do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đang tiến hành điều tra nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc điều tra thì thời hạn điều tra được thực hiện theo quy định của BLTTHS năm 2015.
5. Đối với những vụ án hình sự đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc điều tra, chưa quyết định việc truy tố hoặc chưa đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì thời hạn điều tra, truy tố, xét xử được tính theo thời hạn của BLTTHS năm 2015.
Đối với những bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01/7/2016 và thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 456 của BLTTHS năm 2015 nhưng kể từ ngày 01/7/2016 mới xét xử thì áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định của BLTTHS năm 2015 để giải quyết.
6. Đối với những vụ án hình sự đã xét xử sơ thẩm theo quy định tại BLTTHS năm 2003 mà có kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01/7/2016 nhưng kể từ ngày 01/7/2016 mới xét xử phúc thẩm thì áp dụng BLTTHS năm 2015 để giải quyết.
Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo quy định tại BLTTHS năm 2003 mà có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày 01/7/2016 nhưng chưa giải quyết hoặc kể từ ngày 01/7/2016 mới có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng BLTTHS năm 2015 để giải quyết.
7. Đối với những trường hợp đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa tiếp tục sử dụng cho đến khi kết thúc việc bào chữa.
8. Tòa án tiếp tục áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về án phí, lệ phí Tòa án và các chi phí tố tụng khác cho đến khi có quy định mới của cơ quan có thẩm quyền.
2. Điều 16 Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Điều 16. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này.
3. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
- Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự là quyền của người bị bắt; bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật; nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội; làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự trong vụ án hình sự; hoặc để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
- Điều 16 BLTTHS ghi nhận nguyên tắc này với nội dung sau: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa; nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo; giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại; đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa; quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”.
- Mặt khác, Điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS quy định: “Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Tại Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”.
- Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội được hiểu là việc cơ quan; người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tạo điều kiện cần và đủ để người bị buộc bắt; người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đưa ra những lập luận và lí lẽ; chứng cứ phủ nhận một hay toàn bộ sự buộc tội; làm giảm trách nhiệm hình sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Đặc điểm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của luật Tố tụng hình sự Việt Nam, áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trở thành phương châm, định hướng chi phối toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoạt động tố tụng hình sự.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội có hai nội dung cơ bản là xác định nội dung quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa; đồng thời, quy định cơ quan tiến hành tố tụng trên cơ sở quy định của Luật Tố tụng hình sự trách nhiệm trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
- Thứ nhất, người bị buộc tội có quyền tự bào chữa. Tự bào chữa là việc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự mình thực hiện các quyền tố tụng được pháp luật quy định cho họ nhằm đưa ra các chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước cơ quan tiến hành tố tụng trong các quá trình giải quết vụ án hình sự.
- Thứ hai, người bị buộc tội có quyền được nhờ luật sư hoặc người khác để bào chữa. Nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thông qua luật sư hoặc người khác để thực hiện các quyền tố tụng được pháp luật quy định nhằm đưa ra các chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
- Thứ ba, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Nội dung bài viết:
Bình luận