Những nội dung cơ bản của Luật thương mại quốc tế

Giao thương quốc tế ngày càng phát triển. Luật thương mại quốc tế là pháp luật điều chỉnh cơ bản nhất về các hoạt động đó. Vậy nó bao hàm những nội dung gì? Bài viết dưới đây của Công ty Luật ACC sẽ cung cấp thông tin về Những nội dung cơ bản của Luật thương mại quốc tế. Mời các bạn tham khảo.

Nội Dung Cơ Bản Của Luật Thương Mại Quốc Tế
Nội Dung Cơ Bản Của Luật Thương Mại Quốc Tế

1. Luật thương mại quốc tế là gì?

Theo nghĩa chung nhất, Luật thương mại quốc tế được hiều bao gồm tổng hợp các quy tắc, quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thương mại phát sinh giữa các chủ thể trong hoạt động thương mại quốc tế.

2. Nguồn của luật thương mại quốc tế

Trên cơ sở tham khảo quy định của Điều 38 Quy chế Toà án quốc tế và theo thực tiễn thương mại quốc tế thì LTMQT bao gồm các loại nguồn sau:

Điều ước quốc tế về thương mại: Điều ước quốc tế về thương mại là văn bản pháp lí được các quốc gia kí kết hoặc tham gia nhằm điều chỉnh quan hệ trong hoạt động thương mại quốc tế và có thể thể hiện dưới bất kì tên gọi nào. Liên quan đen hoạt động kinh doanh của thương nhân, thông thường có những trường hợp áp dụng diều ước quốc tổ trong thương mại quốc tế sau: (i) Trường hợp thứ nhất: Đicu ước đương nhiên có giá trị bắt buộc áp dụng đối với các bên - nếu các bên chủ thể của giao dịch thương mại quốc tế có trụ sở thương mại tại các quốc gia thành viên của điều ước quốc tế về thương mại đó; (ii) Trường hợp thứ hai: Tuy các bên chủ thể trong giao dịch thương mại quốc tế không mang quốc tịch các nước thành viên của điều ước quốc tế vế thương mại, nhưng nếu các bên có thoả thuận áp dụng điều ước quốc tế đó, thì các quy dịnh trong điều ước này vẫn được áp dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa các bên.

Pháp luật thương mại quốc gia: Pháp luật quốc gia với tư cách là nguồn của LTMQT là hình thức chứa đựng quy phạm pháp luật do quốc gia ban hành điều chỉnh các hoạt dộng thương mại quốc tế. Liên quan đến hoạt động kinh doanh của thương nhân, những trường hợp pháp luật của quốc gia thường được áp dụng trong HĐTMQT bao gồm: (i) Thứ nhất, luật quốc gia được áp dụng theo thoả thuận giữa các chủ thể; (ii) Thứ hai, luật quốc gia sẽ được áp dụng nếu có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến.

Các tập quán thương mại quốc tế: Tập quán thương mại quốc tế là những thói quen xử sự hình thành lâu đời, được áp dụng liên tục trong thực tiễn thương mại, có nội dung cụ thể, rõ ràng và được các chủ thể trong thương mại quốc tế chấp nhận một cách phổ biến. Tập quán thương mại quốc tế thường được áp dụng trong những trường hợp sau: (i) Khi được các bên thoả thuận ghi nhận trong hợp đồng; (ii) Khi được các nguồn luật liên quan quy định áp dụng; (iii) Khi cơ quan tài phán áp dụng quy định của các tập quán thương mại quốc tế.

Các án lệ: Các án lộ với tư cách là một nguồn luật trong thương mại quốc tế được sử dụng phổ biến nhất tại các nước theo hệ thống luật Anh - Mĩ, nơi mà truyền thống án lệ có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, án lộ cũng trở thành nguồn luật của LTMQT - chủ yếu đó phải là các phán quyết của các cơ quan Trọng tài quốc tế của các tổ chức như ICC (Phòng Thương mại Quốc tế), I

3. Nội dung cơ bản của Luật thương mại quốc tế

3.1. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)

Tiền thân của WTO là Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT 1947). Hiệp định này được xcm là điều ước quốc tế đa biên đầu tiên điều chỉnh hoạt động thương mại giữa các quốc gia kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. GATT yêu cầu các thành viên kí kết phải cắt giảm thuế nhập khẩu theo mức mà các thành viên này cam kết trong bản cam kết thuế quan (Điều II GATT 1947) và áp dụng mức thuế này một cách không phân biệt đối xử cho tất cả các thành viên khác (Điều I GATT 1947). Trải qua 8 vòng đàm phán với mục đích tự do hoá thương mại, do không thể đáp ứng được vai trò là khuôn khổ pháp lí điều chỉnh mọi hoạt dộng thương mại quốc tế, Hiệp định GATT đã được thay thế bằng các quy dịnh pháp lí của Tổ chức Thương mại Thố giới (WTO).

Chính thức di vào hoạt động từ ngày 01/01/1995, hai trong số những nguyên tắc cơ bản cùa WTO bao gồm:

Giảm thiều các rào cản thương mại

Quy định của WTO cấm mọi thành viên đặt ra hoặc duy trì những rào cản thương mại phi thuế quan (theo quy định Điều XI. 1 GATT). Nói một cách khác, trên nguyên tắc, các rào cản phi thuế quan bị cấm. Hơn nữa, ngay cả các hàng rào thuế quan cũng phải bị giảm thiều và việc giảm thuế phải được thể hiện bằng các cam kết về mức thuế trần.

Giảm hàng rào thuế quan: Việc giảm thuế được nhắc tới tại Điều II, Điều XXVIII, XXVIII bis - của Hiệp định GATT. Theo đó, các thành viên WTO phải cắt giảm thuế quan và tuân thủ nghiêm túc mức thuế trần. Thuế quan được coi là biện pháp “hợp pháp” duy nhất để các thành viên WTO bảo hệ nền sản xuất trong nước. Tuy nhiên, rào cản thuế quan vẫn gáy trở ngại đáng kổ cho quá trình tự do hoá thương mại. Khi thuế quan được áp dụng ở mức cao, làm giảm hoặc thậm chí triệt tiêu khả năng cạnh tranh của hàng hoá nhập khẩu thì lại làm cản trở thương mại tự do. Nhìn một cách đơn giản, giảm thuế là phương thức hiệu quả nhất để thực hiện tự do hoá thương mại. Thông qua các vòng đàm phán cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ GATT (các thành viên của GATT đã thực hiện 8 vòng đàm phán cắt giảm thuế quan từ năm 1947 đến năm 1994), mức thuế đối với hàng nhập khẩu của các nước đã hạ xuống rát thấp.

Nhằm thực hiện yôu cầu giảm thiều hàng rào thuế quan, các quốc gia thành viên WTO được yêu cáu cam kết mức thuế trần. Mức thuế trần được ghi nhận tại

Biểu nhân nhượng thuế quan của từng thành viên, trong đó ghi rỏ cam kết của từng nước theo danh mục hàng, mã thuế và thuế suất cam kết. Các biều nhân nhượng thuế quan được đính kèm vào hiệp định GATT và có giá trị như các điều luật trong hiệp định GATT.

Xoá bỏ hàng rào phi thuế quan: Các biện pháp phi thuế quan là “các biện pháp không phải là thuế quan có tác động cấm hoặc hạn chế có hiệu quả nhập khẩu hay xuất khẩu các sản phẩm giữa các nước”. Việc sử dụng các rào cản phi thuế quan hiện nay được xem như là một cách thức bảo hệ mới thay thế cho cách thức bảo hệ cũ - chủ yếu là các hàng rào thuế quan cao (đã được giảm đáng kể qua các vòng đàm phán nối tiếp nhau). Một só rào cản phi thuế quan chủ yếu có thể được liệt kê bao gồm: (i) Các biện pháp hạn chế số lượng (hạn ngạch và phân bổ qua hệ thống giấy phép); (ii) Quy định ve’ nguồn gốc hàng hoá; (iii) Các rào cản kĩ thuật: lạm dụng các quy định và tiêu chuẩn kĩ thuật nhằm hạn chế hàng nhập khẩu như: các biện pháp xác định giá trị hàng đổ đánh thuế hải quan; các thủ tục đổ xin giáy phép nhập khẩu; các thủ tục kiểm định hàng hoá trước khi xuống tàu; các quy định về vộ sinh và kiểm dịch động, thực vật...

Các rào cản phi thuế quan về nguyên tắc bị cám áp dụng vì chúng được cho là có tác hại lớn hơn nhiều so với các rào cản thuế quan: (i) Trước hết là do chúng ít minh bạch hơn các biện pháp thuế quan; (ii) Việc chống lại các rào cản phi thuế quan khó khăn và lâu dài hơn nhiều so với việc chống lại các rào cản thuế quan;

Nhìn bề ngoài không có vẻ mang tính cách bảo hệ hàng trong nước hoặc phân biệt đối xử, do đó, rất khó để nhận biết và lên án chúng; (iv) Các biện pháp phi thuế quan vô cùng đa dạng...

Không phân biệt đối xử

Không phân biệt đối xử trong thương mại được coi là nguyên tắc cơ bản và nền tảng nhất của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và thương mại quốc tế hiện đại. Nguyên tắc này được hiểu một cách cơ bản là: “không một quốc gia nào được có sự phân biệt đổi xử giữa các đổi tác thương mại của mình cũng như không được phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ và người nước mình với hàng hoá, dịch vụ và ngươi rníởc ngoài”. Nội dung của nguyên tắc không phân biột đối xử trong thương mại được cáu thành bởi hai chế độ pháp lí:

Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (Most Favoured Nation Treatment - MFN, Điều I của GATT, Điều 2 của GATS, Điều 4 của Hiệp định TRIPS): Về nguyên tắc, nguyên tắc này có nội dung: “nếu một quốc gia thành viên dành cho một quốc gia khác một sự ưu đãi hay miễn trừ về các lĩnh vực thương mại (hàng hoá, dịch vụ, sở hữu trí tuệ) thì cũng phải dành cho các quốc gia thành viên còn lại sự ưu đãi và miễn trừ đó”.

Chê độ đãi ngộ quốc gia (Nation Treatment - NT, Điều III của GATT, Điều XVII của GATS, Điều 3 của Hiệp định TRIPS): Nếu đãi ngộ tối huệ quốc ghi nhận nghĩa vụ của quốc gia thành viên dành sự đối xử ưu đãi như nhau cho các đối tác thương mại của mình, thì đối xử quốc gia ghi nhận nghĩa vụ của quốc gia thành viên không được phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuộ giữa nước mình với hàng hoá, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài.

Chế độ pháp lí đối xử quốc gia được áp dụng cho mọi lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và bảo hệ sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, phạm vi áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ và sở hữu trí tuệ có khác nhau. Đối với hàng hoá và sở hữu trí tuệ, việc áp dụng chế độ pháp lí đối xử quốc gia là một nghĩa vụ chung (general obligation); còn đối với dịch vụ, chế độ pháp lí đối xử quốc gia chỉ áp dụng đối với những lĩnh vực, ngành nghề đã được mỗi nước đưa vào danh mục cam kết cụ thể.

Những ngoại lệ chủ yêu của hai nguyên tắc trên

Hai nguyên tắc pháp lí trên có một số ngoại lệ như sau:

Ngoại lệ hên quan đến các hiệp định khu vực, quy định tại Điều XXIV của GATT và Bản ghi nhớ về việc giải thích Điều XXIV (xem Điều XXIV.5). Khi hai hay nhiều thành viên của WTO kí một hiệp định thương mại khu vực với nhau, các quốc gia này có thể dành cho nhau những điều kiện thương mại ưu đãi hơn so với các điều kiện dành cho những thành viên còn lại của WTO. Rõ ràng điều này thể hiện sự phân biệt đối xử giữa sản phẩm của các nước thành viên và không thành viên của hiệp định khu vực.

Ngoại lệ liên quan đến các nước đang phát triển. Trong khuôn khổ WTO, ở một chừng mực nhất định, các nước đang phát triển được hưởng che độ đối xử ưu đãi hơn so với các nước phát triển. Các quy định về ngoại lệ liên quan tới các nước đang phát triển được nhắc tới rải rác tại nhiều văn bản khác nhau của WTO.

Ngoại lệ liên quan đến các biện pháp chống hành vi thương mại không lành mạnh (Điều VI GATT 1994). Điều VI của Hiệp định GATT ghi nhận việc các quốc gia thành viên có thể áp thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng khi có hành vi cạnh tranh không lành mạnh (bán phá giá, trợ cấp) nhằm hạn chế, khắc phục thiệt hại gây ra từ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Điều này đã được cụ thể hoá trong hiộp định chống bán phá giá (ADA) và hiệp định về trợ cáp và các biện pháp đối kháng (SCMA).

Các ngoại lộ chung được quy định tại Điều XX của GATT 1947 (quy định tại Điều XX GATT). Điều XX của Hiệp định GATT quy định các ngoại lộ chung đối với các quy định của WTO. Theo đó, một sự vi phạm có thể được chấp nhận nếu sự vi phạm đó: (i) Cần thiết để bảo vệ đạo đức công cộng; (ii) Cán thiết để bảo vệ cuộc sống của con người, động vật hay thực vật và bảo vệ sức khoẻ; (iii) Liên quan tới các sản phẩm sử dụng lao động của tù nhân; (iv) Áp đặt để bảo vệ di sản quốc gia có giá trị nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ; (v) Liên quan tới việc gìn giữ nguồn tài nguyên có thể bị cạn kiệt, nếu các biện pháp đó cũng được áp dụng hạn chế cả với sản xuất và tiêu dùng trong nước...

3.2. Hợp đồng thương mại quốc tế

HĐTMQT là sự thoả thuận giữa các chủ the làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại quốc tế. HĐTMQT được xác lập để quy định về những hành vi mua bán trao đồi hàng hoá, cung ứng các dịch vụ trong nhiều lĩnh vực tài chính, ngân hàng, vận chuyển, bảo hiềm, viễn thông, hàng không dân dụng, chuyển giao công nghệ... có yếu tố nước ngoài (mang tính quốc tế). Các HĐTMQT có thể bao gồm: Hợp đồng mua bán hàng hoá, Hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế, Hợp đồng bảo hiểm, Hợp đồng nhượng quyền thương mại...

Tính quốc tế của hợp đồng thương mại quốc tế

Khi được xem là một HĐTMQT, hợp đồng có thể chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Cơ sở để xem xét một hợp đồng thương mại là một HĐTMQT là khi hợp đồng thương mại đó đáp ứng một trong ba tiêu chí sau đây: (i) Có ít nhất một bên trong hợp đồng đó là thể nhân hoặc pháp nhân nước ngoài (ii) Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá ở nước ngoài, dịch vụ được cung ứng từ hoặc do thương nhân nước ngoài cung ứng; (iii) Hành vi kí kốt hợp đông xảy ra ở nước ngoài.

Kí kết hợp đồng thương mại quốc tế

Khi kí kết hợp đồng thương mại quốc tế, cần chú ý các nội dung sau:

Chủ thể của hợp đồng: Trong HĐTMQT, yếu tố đầu tiên cần phải xác định rõ là yếu tố liên quan đến chủ thôVcác bên tham gia hợp đồng, chủ thể của HĐTMQT ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác, trong đó có: (i) Luật áp dụng (và theo dó là quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, và có thể cả luật tố tụng áp dụng để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng); (ii) Việc công nhận và cho thi hành phán quyết của cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTMQT; (iii) Tư cách chủ thể tham gia quan hệ HĐTMQT (và theo đó là hiệu lực của HĐTMQT); (iv) Quyền của chủ thể trong việc triển khai/thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh cháp phát sinh từ hợp đồng...

Đối tượng của hợp đồng: Là một trong những yếu tố ảnh hưởng đốn hiệu lực của HĐTMQT. Đối tượng của HĐTMQT có đặc trưng là có thể đồng thời hoặc bị điều chỉnh bởi quy định của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Vì thế, về mặt pháp lí phải bảo đảm rằng hàng hoá, dịch vụ là đối tượng của HĐTMQT phải: (i) Bảo đảm thuộc về quyền sở hữu của bên chuyển giao hoặc sử dụng quyền sở hữu theo quy định pháp luật quốc gia có liên quan; (ii) Bảo đảm được tự do lưu thông/cung ứng theo quy định của pháp luật (các) quốc gia hoặc điều ước quốc tế có liên quan; (iii) Nếu cẩn, có thể quy định trách nhiệm liên quan đến việc một bên không đảm bảo các yếu tố nêu trên.

Hình thức của hợp đồng: Hình thức của hợp đồng cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng. Hình thức của hợp đồng là sự biều hiện ra bên ngoài của sự thoả thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. Đó có thể là văn bản và các hình thức tương đương văn bản, lời nói và hành vi của con người. Mỗi hình thức của hợp đồng có giá trị riêng, nhưng trong HĐTMQT, hợp đồng bằng văn bản có nhiều ưu thế hơn, đặc biệt là về khả năng thể hiện rõ ý chí của các bên, và theo đó là căn cứ thực hiện hợp đồng cũng như giá trị chứng cứ giải thích quyền và nghĩa vụ của các bên (khi có phát sinh tranh chấp).

Xét về mặt hình thức hợp đồng, pháp luật của các nước khác nhau quy định một các khác nhau. Các nước là thành viên của Công ước Viên quy định không có những hạn chế về hình thức của hợp đồng. Tại Điều 11 Công ước quy định hợp đồng mua bán không cần phải được kí kết hoặc xác nhận bằng văn bản, hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức của hợp đồng. Hợp đồng có the được chứng minh bằng mọi cách, kể cả bằng những lời khai của nhân chứng. Theo quy định của pháp luật thương mại Việt Nam - cụ thể thì BLDS năm 2015 không bắt buộc hình thức văn bản như là một điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, trừ khi có quy định khác. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được quy định tại khoản 2, Điều 27 LTM năm 2005: “Mua bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương”. Nội dung “hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương” được pháp luật quy dịnh tại khoản 15, Điều 3 LTM năm 2005: “bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật”.

Nội dung của hợp đồng: Nội dung của hợp đồng có the phải có các điều khoản cụ thể theo quy định của pháp luật mỗi nước. BLDS Viột Nam 2015 không đưa ra ràng buộc cụ thể mà chỉ khuyến khích các bên thoả thuận về một số điều khoản điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ của các bên trong một hợp đồng (Điếu 398), bao gồm các điều khoản: (i) Đối tượng của hợp đồng; (ii) Số lượng, chất lượng; (iii) Giá, phương thức thanh toán; (iv) Thời hạn, địa diem, phương thức thực hiện hợp đồng; (v) Quyền, nghĩa vụ của các bên; (vi) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; (vii) Phương thức giải quyết tranh cháp. Công ước Viên 1980 không quy định điều khoản cơ bản mà chỉ nhắc đến các điều khoản về “hàng hoá”, “số lượng” và “giá cả” như là những quy định quan trọng trong việc hình thành một đề nghị giao kết hợp đồng.

Soạn thảo nội dung hợp đồng thương mại quốc tế

Đề cập đến nội dung của HĐTMQT là nói đến các điều khoản và điều kiện. Trong nhiều trường hợp, hợp đồng được xác lập không thể hiện đầy đủ các điều khoản (thông qua thư tín, fax...) nhưng vẫn phải bảo đảm các điều kiện. Điều kiện giữ vai trò quan trọng trong hợp đồng, vì chắp nhận điều kiện đồng nghĩa với chấp nhận nghĩa vụ. Tuỳ theo tính chất, chủng loại mà pháp luật quy định những điều khoản và diều kiện đối với một hợp đồng. Chúng có thể thay đổi ở những loại hợp đồng khác nhau. Pháp luật của các nước khác nhau có quy định một cách khác nhau về tính hợp pháp của HĐTMQT về mặt nội dung. 

HĐTMQT là một phương tiện pháp lí rất quan trọng để thực hiện giao lưu thương mại quốc tế, nhờ đó các thương nhân có thể mua bán hàng hoá, CƯDV... với thương nhân nước ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Hợp đồng cũng là một công cụ quan trọng và hiệu quả để các thương nhân có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh quốc tế.

Trên đây là tất cả thông tin về Những nội dung cơ bản của Luật thương mại quốc tế mà Công ty Luật ACC cung cấp tới các bạn đọc giả. Nếu các bạn đọc giả còn có bất kỳ thắc mắc hay góp ý nào liên quan đến bài viết hoặc những vấn đề pháp lý khác hãy liên hệ với Công ty Luật ACC để nhận được sự hỗ trợ từ đội ngũ luật sư và các tác giả. Chúng tôi luôn sẵn lòng giải đáp thắc mắc của các bạn đọc. Trân trọng!

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo