Trong một vụ việc liên quan đến tố tụng dân sự, khác vớ tố tụng hình sự, nghĩa vụ chứng minh sẽ thuộc về nhiều chủ thể trong đó có cả đương sự. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện theo pháp luật thì đã xuất hiện những bất cập trong nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự. Vậy Những quy định bất cập nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là gì? Hãy cùng ACC tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây!
1. Chứng minh trong tố tụng dân sự là gì ?
Chứng minh trong tố tụng dân sự trong tố tụng dân sự là hoạt động chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự của Toà án nên có nội hàm rất rộng. Bản chất của hoạt động chứng minh của các chủ thể TTDS chỉ thể hiện ở chỗ xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà còn thể hiện ở chỗ phải làm cho mọi người thấy rõ nó là có thật, là đúng với thực tế. Nhưng để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ của chứng minh các chủ thể chứng minh bao giờ cũng phải chỉ ra được tất cả các căn cứ pháp lý và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân sự.
Chứng minh trong tố tụng dân sự không chỉ có ý nghĩa đối với Tòa án trong việc giải quyết mà còn có ý nghĩa với các đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tuy nhiên hoạt động sử dụng chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự không được thực hiện một cách tùy tiện hay thực hiện theo ý chí chủ quan của Tòa án mà cần tiến hành theo một quy trình theo quy định của pháp luật.
Bao gồm các hoạt động như cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ, nghiên cứu chứng cứ và đánh giá chứng cứ đều phải tuân theo quy trình luật định.
2. Một số bất cập về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
Một là, trong nhiều trường hợp, đương sự vẫn chưa thực hiện đầy đủ việc tự chủ động thu thập, chứng cứ. Mặc dù chưa chứng minh được việc không thể tự mình thu thập chứng cứ nhưng lại yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Vô hình chung lại đẩy nghĩa vụ chứng minh cho Tòa án. Bộ luật Tố tụng dân sự chưa quy định rõ thế nào là trường hợp “đương sự không thể thu thập tài liệu, chứng cứ” dẫn đến việc chỉ cần có đơn yêu cầu là Tòa án tiến hành thu thập cho đương sự, khiến cho vụ án kéo dài.
Hai là, tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”. Mặc dù đã được quy định cụ thể, tuy nhiên hiện nay do vẫn còn một số quan điểm khác nhau, dẫn đến trong một số trường hợp Bản án, Quyết định vẫn bị cơ quan có thẩm quyền hủy, sửa với lý do Tòa án chưa thu thập đầy đủ chứng cứ cũng gây ra khó khăn cho việc giải quyết của Tòa án các cấp.
Ba là, một số trường hợp khi Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ thì phát sinh vẫn đề chi phí thu thập chứng cứ. Tuy nhiên hiện nay Bộ luật Tố tụng dân sự chưa có quy định cụ thể về chi phí thu thập tài liệu chứng cứ và xử lý chi phí thu thập, tài liệu chứng cứ dẫn đến trường hợp các chi phí này là mặc dù là có nhưng không thể xử lý trong bản án, quyết định.
Bốn là, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể trường hợp đương sự “không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra” dẫn đến trường hợp Tòa án gặp khó khăn trong việc giải quyết vụ án. Ví dụ trường hợp trong vụ án Vay tài sản mà bị đơn đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án nhưng lại cố tình không hợp tác, không đến Tòa án làm việc thì có được coi là đương sự không phản đối hay không? Trường hợp này Tòa án tiến hành công khai chứng cứ, đưa vụ án ra xét xử hay phải tiến hành trưng cầu giám định chữ viết, chữ ký?
Năm là, khó khăn trong trường hợp xác định chứng cứ khi bị đơn thuộc trường hợp cố tình dấu địa chỉ. Tại Điều 6 Nghị quyết số 04/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao quy định hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án quy định “Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung”. Đây là trường hợp thường gặp trong thực tiễn. Cũng từ đây phát sinh vấn đề liên quan đến nghĩa vụ chứng minh và đang có một số cách hiểu chưa thống nhất đó là:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng: Khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện kèm theo các tài liệu chứng cứ để chứng minh việc khởi kiện mà bị đơn lại cố tình dấu địa chỉ hoặc không hợp tác làm việc thì nguyên đơn được coi là đã hoản thành nghĩa vụ chứng minh của mình. Lúc này nghĩa vụ chứng minh cho việc phản đối phải thuộc về bị đơn. Khi bị đơn cố tình dấu địa chỉ cũng đồng nghĩa với việc tự mình làm mất đi quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trường hợp này Tòa án đưa vụ án ra xét xử và trên cơ sở chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Trong trường hợp sau khi chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, bản án có hiệu lực pháp luật mà bị đơn mới có ý kiến và đưa ra được chứng cứ làm thay đổi bản chất của vụ án thì chỉ có quyền yêu cầu cấp có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Trường hợp Bản án bị hủy thì chỉ được coi là khách quan.
+ Quan điểm thứ hai cho rằng: Việc chứng minh thuộc về cả nguyên đơn và bị đơn. Trong trường hợp bị đơn dấu địa chỉ thì nghĩa vụ chứng cứ vẫn thuộc về nguyên đơn. Nguyên đơn phải chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình dựa vào cơ sở khách quan, khoa học như phải tự thu thập chữ ký chữ viết của bị đơn để trưng cầu giám định hoặc phải tự thu thập chứng cứ khác để chứng minh cho Tòa án thấy yêu cầu của mình là có cơ sở... Khi có kết quả giám định hoặc có chứng cứ khác chứng minh yêu cầu của mình là có cơ sở thì mới được coi là hoàn thành nghĩa vụ chứng minh.Việc vắng mặt của bị đơn mặc dù là cố tính dấu địa chỉ tuy nhiên do chưa thu thập được ý kiến của bị đơn nên không thể coi là bị đơn không phản đối. Tòa án phải thực hiện đầy đủ các công việc kể trên mới có thể đưa vụ án ra xét xử.
Bên cạnh những khó khăn về thu thập chứng cứ, thực hiện nghĩa vụ chứng minh xuất phát từ quy định của pháp luật chưa chặt chẽ, chưa hợp lý và hệ thống các cơ quan bổ trợ tư pháp vừa mỏng, vừa yếu kém chưa hỗ trợ tích cực cho người dân, đặc biệt đôi tượng dân nghèo, hiểu biết hạn chế. Mặt khác, cơ quan tiện hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng có thiếu sót trong việc vận dụng pháp luật. Có những quy định đã hợp lý, đã được hướng dẫn trong Nghị quyết của Hội đồng. Thẩm phán nhưng một số Thẩm phán chưa tìm hiểu kỹ, chưa hiểu thấu đáo, hoặc trách nhiệm chưa cao dẫn đến áp dụng không đúng.
Trên đây là các thông tin về Những quy định bất cập nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự mà ACC cung cấp tới quý bạn đọc. Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào cần hỗ trợ về vấn đề trên vui lòng liên hệ với Công ty Luật ACC của chúng tôi. Công ty Luật ACC luôn cam kết sẽ đưa ra nhưng hỗ trợ tư vấn về pháp lý nhanh chóng và có hiệu quả nhất. Xin chân thành cảm ơn quý bạn đọc.
Nội dung bài viết:
Bình luận