Nhận dạng trong tố tụng hình sự là một trong những hoạt động trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ của Tố tụng hình sự. Thông qua việc tổ chức quan sát để một người xác nhận lại đối tượng, sự vật, hiện tượng mà họ đã chứng kiến và có liên quan đến vụ án. Sau đây kính mời quý bạn đọc cùng tác giả tìm hiểu về nhận dạng được thực hiện như thế nào theo quy định Bộ luật hình sự 2015.

1. Quy định về nhận dạng trong tố tụng hình sự
1.1 Khái niệm về nhận dạng
Nhận dạng là một trong những biện pháp tố tụng để phát hiện, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nhận dạng là quá trình nhớ lại, nhận lại đối tượng mà trước đây người nhận dạng đã tri giác và ghi nhớ trong trí nhớ khi đối tượng đó xuất hiện trở lại. Mục đích của nhận dạng là xác định sự đồng nhất, sự tương đồng hay sự khác nhau giữa đối tượng nhận dạng thực tại với đối tượng mà người nhận dạng đã tri giác trước đây. Nhờ tiến hành nhận dạng Điều tra viên có thể thu thập, kiểm tra, củng cố nhiều tài liệu chứng cứ khác nhau để chứng minh các tình tiết của vụ án và làm cơ sở để xây dựng giả thuyết điều tra.
Xem thêm Thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự
1.2. Nhận dạng trong tố tụng hình sự
Điều 190 Bộ luật tố tụng hình sự quy định trong trường hợp cần thiết Điều tra viên có thể đưa người, ảnh hoặc vật cho người làm chứng, bị hại hoặc bị can nhận dạng.
Có thể tiến hành nhận dạng trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhận dạng trực tiếp là cho người nhận dạng tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nhận dạng. Nhận dạng gián tiếp là nhận dạng thông qua ảnh, băng ghi âm, qua băng video. Việc nhận dạng phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật đã quy định.
Số người, ảnh hoặc vật đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba và bề ngoài phải tương tự nhau, trừ trường hợp nhận dạng tử thi. Nghĩa là nếu nhận dạng người thì cùng với người cần nhận dạng phải có ít nhất hai người khác có hình dáng, khuôn mặt, kiểu tóc, kiểu quần áo gần giống nhau. Đối với vật đưa ra để nhận dạng phải cùng loại, tên gọi, nhãn hiệu và gần giống nhau về hình dáng, kích thước, màu sắc; không được đưa những vật giống hệt nhau để nhận dạng. Khi tiến hành nhận dạng phải bảo đảm điều kiện về sức khỏe của người nhận dạng; không gian, ánh sáng bảo đảm thuận lợi cho việc nhận dạng được chính xác.
2. Những người phải tham gia việc nhận dạng trong tố tụng hình sự
Theo quy định tại Điều 190 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì những người phải tham gia việc nhận dạng gồm: người làm chứng, bị hại hoặc bị can; Người chứng kiến.
- Người làm chứng được quy định tại Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.
- Bị hại: là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. (Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015)
- Bị can: Điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự quy định bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định.
- Người chứng kiến: là người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này (Điều 67). Người chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội dung, kết quả nhận dạng và có thể nêu ý kiến cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản. Những người sau đây không được làm người chứng kiến việc nhận dạng: Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức đúng sự việc; người dưới 18 tuổi…
3. Nguyên tắc nhận dạng trong tố tụng hình sự
- Việc nhận dạng phải tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
- Người nhận dạng có thể là người làm chứng, bị hại hoặc bị can. Đối tượng nhận dạng có thể là người, ảnh hoặc vật.
- Số người, ảnh hoặc vật đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là 03 và bề ngoài phải tương tự nhau, trừ trường hợp nhận dạng tử thi.
- Trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử kiểm sát viên kiểm sát việc nhận dạng. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận dạng. Nếu kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bàn nhận dạng..
- Người tham gia nhận dạng được luật quy định cụ thể. Những người phải tham gia nhận dạng, bao gồm: người làm chứng, bị hại hoặc bị can, người chứng kiến.
- Nếu người làm chứng hoặc bị hại là người nhận dạng thì trước khi tiến hành, Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc này phải ghi vào biên bản.
- Trong khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên không được đặt câu hỏi có tính chất gợi ý.
4. Thủ tục nhận dạng trong tố tụng hình sự
Trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận dạng. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận dạng. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận dạng.
Điều tra viên phải hỏi trước người nhận dạng về những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được (khoản 4 Điều 190). Khi hỏi người nhận dạng, Điều tra viên cần hỏi thật kỹ họ về các tình tiết, vết tích, đặc điểm của đối tượng nhận dạng; các yếu tố khách quan trong khi họ tri giác đối tượng như ánh sáng, khoảng cách; các yếu tố chủ quan trong khi họ tri giác đối tượng...
Việc hỏi trước giúp cho người nhận dạng có thời gian, điều kiện để nhớ lại các tình tiết, vết tích và đặc điểm của đối tượng mà họ đã tri giác trước đây; là cơ sở để kiểm tra, đánh giá lời khai của họ sau khi việc nhận dạng kết thúc và cũng để xác định lại việc có cần thiết tiến hành nhận dạng hay không.
- Nếu người nhận dạng là người dưới 18 tuổi thì trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên còn phải thông báo cho người bào chữa, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự (Điều 420, 421).
- Nếu có người làm chứng hoặc bị hại là người nhận dạng thì trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối. Việc này phải ghi vào biên bản nhận dạng (khoản 3 Điều 190). Có nhiều nguyên nhân làm cho người làm chứng hoặc bị hại từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối: sợ bị trả thù, có mối quan hệ gia đình, bạn bè..., làm ảnh hưởng đến kết quả nhận dạng. Vậy nên, việc quy định như trên là cần thiết, bảo đảm sự đúng đắn trong lời khai của người làm chứng, bị hại.
- Số người, ảnh hoặc vật đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba, trừ trường hợp nhận dạng tử thi (khoản 1 Điều 190). Số người, ảnh hoặc vật đưa ra quá nhiều sẽ làm cho người được nhận dạng mất tập trung, khó khăn trong việc nhận dạng. Ngược lại, nếu đưa người, ảnh hoặc vật ra quá ít thì việc nhận dạng sẽ không được khách quan.
- Trong quá trình tiến hành nhận dạng, Điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Điều tra viên đặt câu hỏi gợi ý rất dễ làm cho người nhận dạng khai báo theo ý của Điều tra viên, làm ảnh hướng đến tính khách quan của kết quả nhận dạng.
Sau khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận được người, vật hay ảnh đó.
Kết thúc việc nhận dạng, Điều tra viên phải lập biên bản. Biên bản nhận dạng được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật tố tụng hình sự. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khỏe của người nhận dạng và của những người được đưa ra để nhận dạng; đặc điểm của vật, ảnh được đưa ra để nhận dạng; các lời khai báo, trình bày của người nhận dạng; điều kiện ánh sáng khi thực hiện nhận dạng (khoản 5 Điều 190).
Trên đây là nội dung về nhận dạng trong tố tụng hình sự đã được nghiên cứu và tìm hiểu theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành. Công ty luật ACC với độ "phủ sóng" trên 63 tỉnh thành sẵn sàng giải đáp, hỗ trợ các vấn đề pháp lý của quý bạn đọc. Mọi thắc mắc, hoặc vấn đề pháp lý cần hỗ trợ vui lòng liên hệ với bộ phận chăm sóc khách hàng để được hỗ trợ.
Nội dung bài viết:
Bình luận