Năm 1947, lần đầu tiền MFN được thể chế hóa vào một hiệp định đa phương. Với việc MFN được ghi nhận là một trong những nguyên tắc nền tảng của hệ thống thương mại đa phương, các thành viên GATT/WTO đều thừa nhận nguyên tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại với nhau. Sau đây là ngoại lệ của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc [Mới nhất 2022]
1. Khái quát chung về nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
Điều I GATT 1994 quy định chung về Đối xử tối huệ quốc: Khoản 1 quy định: “Với mọi khoản thuế quan nhằm vào hay có liên hệ tới nhập khẩu và xuất khẩu hoặc đánh vào các khoản chuyển khoản để thanh toán hàng xuất nhập khẩu, hay phương thức đánh thuế hoặc áp dụng phụ thu nêu trên, hay với mọi luật lệ hay thủ tục trong xuất nhập khẩu và liên quan tới mọi nội dung đã được nêu tại khoản 2 và khoản 4 của Điều III,* mọi lợi thế, biệt đãi, đặc quyền hay quyền miễn trừ được bất kỳ bên ký kết nào dành cho bất cứ một sản phẩm có xuất xứ từ hay được giao tới bất kỳ một nước nào khác sẽ được áp dụng cho sản phẩm tương tự có xuất xứ từ hay giao tới mọi bên ký kết khác ngay lập tức và một cách không điều kiện.”
2. Một số ngoại lệ của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
2.1. Chế độ ưu đãi đặc biệt
Đây là chế độ ưu đãi đặc biệt về thuế quan truyền thống giữa một số nước thành viên hình thành trong thời kỳ chế độ thuộc địa, tồn tại trước khi hiệp định GATT 1947 ra đời. Chế độ ưu đãi đặc biệt của thuế quan là các đặc lợi về thuế quan mang tính phân biệt đối xử vì chỉ áp dụng riêng giữa một số nước với nhau hoặc trong một khu vực nhất định. Ví dụ như: chế độ ưu đãi của Khối thịnh vượng chung, chế độ ưu đãi của Khối liên hiệp pháp, Ưu đãi giữa Mỹ và Philippines
Tuy mục tiêu của GATT 1947 là tự do hóa thương mại và chống phân biệt đối xử giữa các nước thành viên nhưng khi ra đời năm 1947 đã không thể xóa ngay bỏ lập tức và toàn bộ các ưu đãi thuế quan này. Do đó, nó đã buộc phải chấp nhận sự tồn tại của chế độ ưu đãi đặc biệt này như một ngoại lệ nhưng với các điều kiện sau:
Thứ nhất là các ưu đãi này chỉ giới hạn trong thuế quan đối với hàng nhập khẩu mà không cho phép ưu đãi đặc biệt về thuế quan xuất khẩu, hạn chế xuất nhập khẩu và các hạng mục khác,...
Thứ hai là ưu đãi đặc biệt này chỉ giới hạn giữa một số nước thành viên đã được chấp nhận mà không được phép thiết lập các loại ưu đãi mới khi 1947 ra đời (khoản 2 điều 1 và phụ lục liệt kê cụ thể các ưu đãi đặc biệt này),...
Thứ ba là không cho phép tăng sự chênh lệch giữa thuế suất ưu đãi đặc biệt đã có khi thành lập năm 1947 với thuế suất tối huệ quốc
2.2. Hội nhập kinh tế khu vực
Theo quy định tại điều 24 GATT 1994 thì nguyên tắc đối xử tối huệ quốc sẽ không áp dụng đối với khu vực mậu dịch tự do hoặc đồng minh thuế quan. Nói cách khác là hội nhập kinh tế khu vực cụ thể là đồng minh thuế quan và khu vực mậu dịch tự do được coi là ngoại lệ của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc.
Đồng minh thuế quan nghĩa là về mặt nguyên tắc các thành viên của nó không thiết lập vào cản thương mại đối với thương mại của nhau, còn đối với thương mại ngoài khu vực thì áp dụng hệ thống thuế quan chung cũng như các quy định chung về thương mại.
Khu vực mậu dịch tự do nghĩa là về nguyên tắc các nước thành viên của khu vực không thiết lập rào cản đối với thương mại của nhau nhưng mỗi nước thành viên duy trì hệ thống thuế quan và các quy định thương mại của riêng mình đối với thương mại của nước ngoài khu vực (khoản 8 điều 24)
GATT 1947 thừa nhận rằng khu vực thực trạng dịch tự do và đồng minh thuế quan giữa các nước thành viên sẽ có thể thúc đẩy tự do hóa thương mại tạo ra hiệu quả thương mại giữa các nước trong khối. Tuy nhiên đây vẫn chỉ là sự tự do thương mại giữa các nước trong khối mà thôi cho nên mặt trái của việc thành lập khu vực mậu dịch tự do và đồng minh thuế quan là tạo ra rào cản phân biệt đối xử với các nước ngoài khối. Tùy theo mức độ của các rào cản này mà có thể nhập khẩu của các nước ngoài phối có hiệu suất cao lại bị thay thế của sản phẩm có hiệu suất thấp của các nhà sản xuất trong khối. Chính vì những đặc điểm trên mà GATT 1947 đã đưa ra một số điều kiện sau đây đối với sự thành lập khu vực mậu dịch tự do hay đồng minh thuế quan:
Thứ nhất thuế quan và các rào cản thương mại khác về mặt thực chất giữa các nước trong khu vực phải được dỡ bỏ hoàn toàn
Thứ hai, thuế quan và các rào cản thương mại khác đối với các nước ngoài khu vực không được phép tăng hơn so với trước khi thành lập đồng minh thuế quan hay khu vực mậu dịch tự do;
Thứ ba, đồng minh thuế quan, khu vực mậu dịch tự do phải được xây dựng theo lịch trình hợp lý trong một khoảng thời gian hợp lý.
2.3. Các biện pháp đặc biệt đối với các nước đang phát triển
Ngoại lệ tiếp theo của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc là ưu đãi đặc biệt đối với các nước đang phát triển.Biện pháp đối xử đặc biệt mà ngay từ khi thành lập từ khi thành lập GATT 1947 đã cho phép các nước đang phát triển áp dụng là hỗ trợ Chính Phủ với phát triển kinh tế. Biện pháp này được quy định tại Điều 18, theo đó các nước thành viên đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế sẽ được phép tiến hành những hạn chế nhập khẩu cần thiết phục vụ cho phát triển kinh tế với một số điều kiện nhất định.
Sau đó vào những năm 60 của thế kỉ XX cùng với những thay đổi về kinh tế chính trị trên thế giới, xuất phát từ sự chênh lệch về trình độ phát triển so với các nước phát triển, một số nước đang phát triển đã đấu tranh đòi được hưởng nhiều ưu đãi hơn trong thương mại quốc tế và đã đề xuất một biện pháp đặc biệt mới theo đó các nước phát triển sẽ phải dành cho các nước đang phát triển những ưu đãi về thương mại có lợi hơn so với các ưu đãi dành cho nước thứ ba khác. Dựa trên đề xuất này mà chế độ ưu đãi phổ cập (GSP) đã được chấp nhận đưa vào áp dụng trong GATT 1947 từ năm 1971. Vì được áp dụng trong lĩnh vực thuế quan cho nên nó còn được gọi với cái tên là chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập.
GSP thực chất là việc các nước phát triển đơn phương tự nguyện dành cho sản phẩm các nước đang phát triển hưởng thuế suất nhập khẩu thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của nước phát triển khác. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các nước phát triển sẽ không yêu cầu các nước đang phát triển đưa ra cam kết thương mại trên cơ sở "có đi có lại" mà sẽ đơn phương cắt giảm và hủy bỏ hàng rào thuế quan. Bằng cách đó thúc đẩy xuất khẩu từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển giúp tăng nguồn thu thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của các nước đang phát triển.
Hiện nay, có 17 chế độ ưu đãi khác nhau đang hoạt động tại 42 nước phát triển, bao gồm 28 nước thành viên của EU. • Ngoaì EU, còn có cac nước : Hoa Kỳ, (đã gia hạn chế độ GSP từ tháng 10/2011 đến 31/7/2013, Nhật, Ôx-Trây-Lia, Niu - Di - Lân, Thuỵ Sĩ,, Liên minh thuế quan Nga-Kazactan-Belarut, các quốc gia trung lập (CIS), Ca - Na - Đa, Na - Uy, Ôx-Trây-Lia, Newzealand, Thổ Nhị Kỳ cũng áp dụng GSP.
Các nước đang áp dụng GSP cho Việt Nam bao gồm: Liên minh Châu Âu. (Bắt đầu từ ngày 1/1/2014 EU áp dụng chế độ GSP mới đối với Việt Nam. Theo đó Việt Nam được hưởng chế độ GSP đối với tất cả các mặt hàng.), Nhật bản, Canađa, Thụy sĩ, Liên minh thuế quan Nga, Kazactan-Belarut với mức thuế bằng 75% thuế MFN. Ngoài ra, Úc và New (hai nước này không đề cập đến chế độ GSP nhưng Newzealand dành ưu đãi cho các nước chậm phát triển (LDC) và kém phát triển (LLDC). Việt Nam được hưởng ưu đãi theo nhóm nước LCD. Úc dành ưu đãi cho các nước chậm phát triển và các nước đang phát triển với mức thuế được ký hiệu là DC hoặc DCS. Việt Nam thuộc nhóm nước được hưởng mức thuế DCS. Trong hiệp hội Mậu dịch tự do Chấu Âu (EFTA gồm Thuỵ Sĩ, Na Uy, Iceland và Liechxtentin) thì chỉ Thuỵ Sỹ dành cho Việt Nam GSP
So sánh với chế độ ưu đãi đặc biệt nêu trên thì có điểm giống là mức thuế đối với hàng nhập khẩu từ một số nước nhất định sẽ thấp hơn mức thuế nhập khẩu tính vào sản phẩm của nước thành viên khác Tuy nhiên điểm khác biệt giữa hai chế độ này là ở chỗ GSP không chỉ sử dụng với các nước có quan hệ đặc biệt về mặt chính trị và lịch sử mà nó áp dụng chung cho tất cả các nước đang phát triển. Chính vì thế mà nó được gọi là chế độ phổ cập. Hơn nữa, những nước được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập là các nước đang phát triển và nó là các ưu đãi mang tính một chiều của các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển. Trong khi đó chế độ độ ưu đãi đặc biệt mang tính song phương vào nước được hưởng ưu đãi là các nước thuộc chế độ đó bất kể là đang phát triển hay đã phát triển.
Khi WTO ra đời bên cạnh GSP, các đối xử đặc biệt và khác biệt (S&D) dành cho các nước đang phát triển còn được cụ thể hóa trong các hiệp định của WTO. Cách đối xử đặc biệt và khác biệt này bao gồm: hưởng một số ưu đãi, miễn trừ thực hiện nghĩa vụ trong một thời gian nhất định và trợ giúp về mặt kỹ thuật
2.4 Các ngoại lệ khác
Bên cạnh các ngoại lệ nêu trên GATT 1994 còn quy định một số các trường hợp không được phép một số các trường hợp không áp dụng nguyên tắc đối xử tối huệ quốc mà không cần phải xin phép hoặc thông qua thủ tục đặc biệt nào, đó là các biện pháp cần thiết để bảo vệ đạo đức, trật tự công cộng, bảo vệ sinh mạng và cuộc sống của con người, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên,...( điều 20) các biện pháp để bảo vệ an ninh quốc gia (điều 21),.. Ngoài ra trong trường hợp một nước thành viên được công nhận miễn trừ nghĩa vụ một cách tạm thời theo thủ tục nhất định của GATT thì lúc đó sẽ không phải thực hiện nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc (Điều 25)
Nội dung bài viết:
Bình luận