1. Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính:
Cũng như bất kỳ quan hệ pháp luật nào, chủ thể tham gia quan hệ pháp luật này phải có năng lực chủ thể, đồng thời năng lực chủ thể này cũng phải đáp ứng các điều kiện của quan hệ pháp luật này. Và chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính cũng không ngoại lệ. Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính và có quyền, nghĩa vụ với nhau theo quy định của pháp luật. Như vậy, điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là cơ quan, tổ chức, cá nhân đó phải có năng lực chủ thể phù hợp với quan hệ pháp luật hành chính mà mình tham gia.
2. Thẩm quyền của chủ thể quan hệ pháp luật hành chính:
Năng lực chủ thể nói chung là năng lực pháp luật của các chủ thể tham gia vào một quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể của quan hệ đó, bao gồm hai yếu tố năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Năng lực pháp luật là khả năng được hưởng các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà nhà nước quy định cho cá nhân, tổ chức. Năng lực hoạt động là năng lực của chủ thể được Nhà nước thừa nhận để chủ thể đó có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình và chịu những hậu quả pháp lý nhất định do hành vi của mình gây ra.
Trong lĩnh vực hành chính, năng lực của chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính cũng chính là năng lực của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với tư cách là chủ thể của quan hệ này. Nói cách khác, năng lực chủ thể trong quan hệ hành chính - pháp luật là năng lực hưởng thụ và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ hành chính - pháp luật. Năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính còn bao gồm năng lực pháp luật hành chính và năng lực hành vi hành chính. Nhưng ranh giới giữa chúng là rõ ràng trong trường hợp của một chủ thể riêng lẻ. Trong trường hợp chủ thể là cơ quan, công chức, tổ chức nhà nước thì năng lực pháp luật và năng lực hành vi khó phân biệt.
Đối tượng trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính Việt Nam bao gồm: cơ quan nhà nước; giám đốc điều hành, công chức, tổ chức xã hội; tổ chức xã hội; các tổ chức khác; Công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch, cụ thể:
Thứ nhất: khách thể của quan hệ pháp luật hành chính Việt Nam là cơ quan nhà nước. Ngay từ khi ra đời, các cơ quan công quyền đã được pháp luật quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Vì vậy, kể từ thời điểm này, các cơ quan nhà nước có đầy đủ năng lực pháp lý để tham gia vào các quan hệ pháp luật hành chính Việt Nam. Như vậy, khả năng là chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính ở Việt Nam của cơ quan nhà nước phát sinh khi cơ quan đó được thành lập và chấm dứt khi cơ quan đó giải thể.
đề nghị từ
Thứ hai: chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính Việt Nam là chấp hành viên, công chức. Là cán bộ, công chức, năng lực chủ thể của chủ thể này được hình thành khi cán bộ, công chức được nhà nước giao đảm nhận một chức năng, nhiệm vụ, vị trí, chức danh cụ thể trong bộ máy nhà nước và chấm dứt khi họ không còn thực hiện chức năng, nhiệm vụ này nữa. nhiệm vụ, công việc hoặc vị trí. Ví dụ, khi thực hiện nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của mình, họ có quyền xử phạt hành chính cá nhân vi phạm. trật tự an toàn giao thông. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, họ có thể bị các chủ thể khác trừng phạt nếu vi phạm.
Thứ ba: Chủ thể quan hệ pháp luật hành chính của Việt Nam là tổ chức xã hội. Năng lực pháp luật hành chính của tổ chức phát sinh khi tổ chức được thành lập hợp pháp và pháp luật hành chính Việt Nam quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý của tổ chức trong các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước và chấm dứt khi các quy định này không còn tồn tại hoặc tổ chức giải thể.
n.m.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Thứ tư: Cá nhân là khách thể của quan hệ pháp luật hành chính Việt Nam. Tư cách chủ thể của thể nhân trong quan hệ pháp luật hành chính được làm rõ như sau:
3. Năng lực chủ thể của thể nhân trong quan hệ pháp luật hành chính:
Đối với cá nhân, năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính khác với chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính Việt Nam ở chỗ năng lực chủ thể của cá nhân bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi. . Vì vậy, để xác định người có năng lực, chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính Việt Nam, ngoài việc khẳng định người đó có các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định, còn phải khẳng định người đó có năng lực hay không. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý có thực tế không cũng như thực tế này đã được nhà nước ghi nhận hay chưa? Như vậy, sự tham gia của cá nhân vào quan hệ pháp luật hành chính ở Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào quy định của pháp luật hành chính mà còn phụ thuộc vào năng lực thực tế của mỗi cá nhân.
Năng lực pháp luật hành chính của cá nhân là khả năng được hưởng các quyền và nghĩa vụ pháp lý do pháp luật hành chính Việt Nam quy định. Năng lực pháp luật hành chính của cá nhân thể hiện địa vị pháp lý của cá nhân trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Thông thường, năng lực pháp luật hành chính Việt Nam của cá nhân bắt đầu từ khi sinh ra và chấm dứt khi chết.
Năng lực hành vi của cá nhân là khả năng thông qua hành vi của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý được quy định trong pháp luật hành chính Việt Nam trên thực tế và được nhà nước thừa nhận. Xem xét năng lực hành vi quản trị của cá nhân được thể hiện trên hai khía cạnh, hai khía cạnh đó là độ tuổi và khả năng nhận thức hành vi của cá nhân. Tuỳ theo từng quan hệ pháp luật hành chính Việt Nam mà năng lực hành vi của một cá nhân được xác định ở các độ tuổi khác nhau theo quy định của pháp luật hành chính Việt Nam.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi không trùng nhau về thời điểm phát sinh năng lực pháp luật nhưng có sẵn năng lực pháp luật là tiền đề cho sự phát sinh năng lực hành vi. Năng lực pháp luật hành chính của cá nhân là khả năng của cá nhân được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ pháp lý hành chính nhất định do nhà nước quy định. Năng lực hành vi hành chính của cá nhân là năng lực của cá nhân được nhà nước công nhận để cá nhân có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính của mình, đồng thời chịu hậu quả pháp lý do những nguyên nhân nhất định do hành vi của mình gây ra. Năng lực pháp luật của cá nhân do nhà nước quy định. Năng lực hành vi hành chính của một cá nhân phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tuổi tác, trình độ văn hóa, tình trạng sức khỏe và hơn hết, trong nhiều trường hợp, nó phụ thuộc vào sự công nhận của nhà nước. .
- Phân tích trên có thể được làm rõ qua ví dụ về việc công dân Việt Nam có năng lực thực hiện hành vi hành chính tại Việt Nam trong quan hệ pháp luật hành chính, cụ thể trên cơ sở quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật xử lý hành chính. phạm tội. 2012 có quy định về độ tuổi bị xử phạt hành chính như sau Trường hợp nào bị xử lý hành chính
Đầu tiên. Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính do cố ý; người đủ 16 tuổi trở lên sẽ bị xử phạt hành chính về mọi hành vi vi phạm hành chính.
Người thuộc quân đội nhân dân, công an nhân dân vi phạm hành chính thì bị xử lý như công dân khác; Trường hợp cần áp dụng hình phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động liên quan đến quốc phòng, an ninh có thời hạn thì người xử phạt yêu cầu cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân thực hiện. Công an nhân dân có thẩm quyền giải quyết; »
Vì vậy, theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Khi áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính cần phải xác định rõ hành vi phạm tội và người phạm tội. Độ tuổi áp dụng xử phạt hành chính được áp dụng bao gồm người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm hành chính do cố ý và người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về tất cả các hành vi vi phạm hành chính.
Cần lưu ý rằng một cá nhân được coi là có năng lực hành vi hành chính khi cá nhân đó có năng lực thực tế để thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý và năng lực này phải được Nhà nước công nhận. Theo quy định tại Điều 60 Luật Giao thông đường bộ 2008 về độ tuổi, sức khỏe của người lái xe và quyền được dự thi lấy GPLX mô tô từ 50cc.
Tuổi của người lái xe được quy định như sau: Người đủ 18 tuổi trở lên được lái xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích động cơ từ 50 cc trở lên và các loại xe có cấu tạo tương tự một mình. ô tô tải, máy kéo có trọng tải dưới 3.500 kg; ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi'.
Nội dung bài viết:
Bình luận