I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
Trong thời gian qua, với chính sách đổi mới, hội nhập, cùng với sự phát triển nhanh về các mặt kinh tế – xã hội, hệ thống các đô thị ở nước ta đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng và quy mô. Tính đến nay cả nước ta đã có 752 đô thị các loại (bao gồm từ đô thị loại 5 đến đô thị loại đặc biệt) trong đó có 2 đô thị loại đặc biệt (thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh), 7 đô thị loại I, 14 đô thị loại II, 45 đô thị loại III, 38 đô thị loại IV, 646 đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hoá đạt gần 30%. Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, là trái tim của cả nước, các đô thị lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ... là những trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ, đang đóng vai trò đầu tàu cho sự phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng và cả nước. Ngoài ra, cả nước hiện đang có trên 160 khu công nghiệp tập trung, 10 đô thị mới, 28 khu kinh tế cửa khẩu và khu kinh tế đặc thù, góp phần mở rộng mạng lưới đô thị quốc gia, tạo tiền đề cho sự phát triển đô thị tại các vùng ven biển và biên giới. Nhiều khu đô thị mới đã và đang được hình thành với hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, góp phần giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của các đô thị hiện nay, nhất là vấn đề nhà ở và các dịch vụ đô thị. Bộ mặt đô thị Việt Nam nói chung đã có nhiều khởi sắc theo hướng văn minh, hiện đại. Những thành tựu nêu trên có sự đóng góp quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến các địa phương và sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế trong xã hội. Đặc biệt là 5 năm gần đây, kể từ khi Luật Xây dựng được ban hành, công tác quản lý quy hoạch xây dựng đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực tế phát triển đô thị ở nước ta vẫn còn một số vấn đề tồn tại làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển các đô thị nói riêng và kinh tế - xã hội nói chung. Việc quản lý, sử dụng đất đai trong đô thị còn nhiều lãng phí. Tình trạng ô nhiễm môi trường đô thị chậm được cải thiện. Các vấn đề về nhà ở, giao thông đô thị đang gây nhiều bức xúc. Kiến trúc đô thị còn chắp vá, thiếu bản sắc. Công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch còn nhiều bất cập.
Việc lập quy hoạch còn chậm, chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tế xã hội và yêu cầu quản lý. Nhiều địa phương chưa quan tâm đúng mức, chưa tập trung các nguồn lực cần thiết cho công tác lập quy hoạch dẫn đến tình trạng quy hoạch chưa đi trước, thiếu cơ sở cho quản lý phát triển đô thị. Việc tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch còn nhiều bất cập, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành dẫn đến tình trạng không thống nhất giữa quy hoạch đô thị với các quy hoạch chuyên ngành khác, chưa bảo đảm sự kết nối, nhất là sự liên thông, đồng bộ về hạ tầng trong đô thị và giữa đô thị với khu vực lân cận. Tính chuyên nghiệp của đội ngũ lập quy hoạch chưa cao. Trong quá trình lập quy hoạch chưa thu hút được sự tham gia rộng rãi của cộng đồng, đặc biệt là của các nhà chuyên môn. Những vấn đề nêu trên dẫn đến chất lượng quy hoạch còn thấp, thiếu tính khả thi không phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, phải điều chỉnh nhiều và chưa thu hút được các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư phát triển đô thị theo quy hoạch.
Công tác quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch trên thực tế còn nhiều yếu kém, hiệu quả chưa cao. Việc công bố, công khai quy hoạch được duyệt còn chậm và mang tính hình thức. Việc triển khai đưa các chỉ giới, mốc giới ra ngoài thực địa thực hiện chưa tốt dẫn đến tình trạng vi phạm chỉ giới quy hoạch, lấn chiếm đất công còn phổ biến ở nhiều nơi. Việc cung cấp thông tin quy hoạch, giới thiệu địa điểm, cấp chứng chỉ quy hoạch, cấp giấy phép xây dựng còn phức tạp về thủ tục, gây phiền hà cho các nhà đầu tư, hệ quả là công trình xây dựng không phép, sai phép còn chiếm tỷ lệ lớn, chính quyền địa phương không kiểm soát được việc tuân thủ quy hoạch trong hoạt động xây dựng tại đô thị. Việc quản lý kiến trúc đô thị còn lúng túng làm cho diện mạo đô thị không có định hướng, chắp vá, lộn xộn và thiếu bản sắc. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật và các dịch vụ đô thị thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng đòi hỏi thực tế của các đô thị. Nhiều chỉ tiêu quan trọng về hạ tầng đô thị chưa đạt quy chuẩn và chưa theo kịp các nước trong khu vực[1]. Việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị thiếu kế hoạch, thiếu sự phối hợp giữa các ngành, dẫn đến sự lãng phí lớn, gây nhiều bức xúc trong đời sống đô thị. Nguồn nhân lực phục vụ cho công tác lập quy hoạch cũng như triển khai thực hiện quy hoạch còn thiếu về số lượng và chất lượng chưa cao.
Pháp luật hiện hành của nước ta đã có nhiều quy định về quy hoạch và quản lý phát triển đô thị. Tuy nhiên, các quy định này còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, hiệu lực pháp lý thấp, nhiều quy định lạc hậu so với thực tế, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý phát triển đô thị và hội nhập quốc tế. Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự bất cập trong công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị ở nước ta hiện nay. Luật Xây dựng hiện hành đã có 1 chương quy định về quy hoạch xây dựng, tuy nhiên một số quy định của Luật còn mang tính nguyên tắc, thiếu các quy định cụ thể về quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch cũng như các quy định về quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ đô thị. Quy trình, thủ tục về lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch còn phức tạp, tốn nhiều thời gian. Các quy định về lấy ý kiến cộng đồng khi lập quy hoạch cũng như việc công khai, cung cấp thông tin quy hoạch chưa đầy đủ và chưa phù hợp với điều kiện thực tế. Sự phân công, phân cấp trong quản lý đô thị còn chưa thật phù hợp với điều kiện thực tế ở các địa phương. Trách nhiệm của chính quyền đô thị trong quản lý các vấn đề đặc thù của đô thị nhất là quản lý kiến trúc, cảnh quan đô thị chưa được thiết lập đầy đủ, rõ ràng dẫn đến lúng túng, trùng lắp và kém hiệu quả trong thực hiện. Một số vấn đề quan trọng khác như quy hoạch và quản lý không gian ngầm, kinh phí, nhân lực cho công tác lập và triển khai quy hoạch cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch... còn thiếu quy định cụ thể, chưa tạo ra được một hệ thống cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị.
Tình hình thực tế phát triển đô thị, thực trạng công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị ở nước ta như phân tích trên đây đòi hỏi phải sớm ban hành Luật quy hoạch đô thị. Đây cũng là bước pháp điển hoá quan trọng, nhằm mục đích tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ, phù hợp cho công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị ở nước ta hiện nay. Luật quy hoạch đô thị được ban hành sẽ là công cụ hữu hiệu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong xây dựng và phát triển đô thị; bảo đảm phát triển hệ thống các đô thị và từng đô thị bền vững, có bản sắc, văn minh, hiện đại; đồng bộ với phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới (như Anh, Pháp, Nga, Ai-len, Phần Lan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc...) cho thấy các nước đều coi quy hoạch đô thị là công cụ quan trọng để quản lý và phát triển đô thị. Nhiều nước có đạo luật riêng về quy hoạch đô thị. Trong số đó, Luật Quy hoạch đô thị của Trung Quốc được ban hành từ năm 1989 và được sửa đổi, bổ sung năm 2008 có nhiều quy định phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay.
Hầu hết luật các nước đều xác định nguyên tắc quản lý quy hoạch đô thị phải đi từ tổng quát đến cụ thể, thông qua quy trình từ quy hoạch chung, quy hoạch phân khu đến quy hoạch chi tiết. Trong quy hoạch của từng đô thị, phải định rõ các khu chức năng, trong đó Nhà nước đặc biệt quan tâm đến việc quản lý và thực hiện quy hoạch các khu chính trị - hành chính; đối với các khu chức năng khác, Nhà nước định hướng, tạo điều kiện để các tổ chức, doanh nghiệp được tham gia lập quy hoạch và đầu tư phát triển các dự án theo quy hoạch.Quy hoạch phải bảo đảm cho việc đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ đô thị đồng bộ và phải đi trước, tạo tiền đề cho việc xây dựng và thực hiện các dự án.
Luật pháp các nước đề cao tính công cộng, là đặc điểm quan trọng của đô thị, đưa ra các nguyên tắc quản lý và sử dụng không gian đô thị, kể cả không gian ngầm; thông qua kiến trúc sư trưởng nhằm quản lý hiệu quả cảnh quan, kiến trúc đô thị, bảo đảm bản sắc đô thị phù hợp với truyền thống văn hoá của dân tộc. Hầu hết các nước đều quản lý thực hiện quy hoạch thông qua việc cấp giấy phép quy hoạch. Bên cạnh đó, luật pháp các nước đều đưa ra các nguyên tắc để cộng đồng tham gia có hiệu quả vào việc xây dựng và thực hiện quy hoạch.
Chính vì vậy, việc xây dựng và trình Quốc hội thông qua Luật Quy hoạch đô thị là cần thiết nhằm tạo cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch đô thị hiệu lực, hiệu quả. Sau một thời gian xây dựng, ngày 17 tháng 6 năm 2009 tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII đã thông qua Luật Quy hoạch đô thị.Luật sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.
2. Mục lục Luật quy hoạch đô thị
Chương I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 4. Phân loại và cấp quản lý hành chính đô thị
Điều 5. Nguyên tắc tuân thủ quy hoạch đô thị
Điều 6. Yêu cầu đối với quy hoạch đô thị
Điều 7. Trình tự lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch đô thị
Điều 8. Quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tham gia ý kiến và giám sát hoạt động quy hoạch đô thị
Điều 9. Lưu trữ, lưu giữ hồ sơ đồ án quy hoạch đô thị
Điều 10. Điều kiện của tổ chức tư vấn, cá nhân tham gia lập quy hoạch đô thị
Điều 11. Lựa chọn tổ chức tư vấn lập quy hoạch đô thị
Điều 12. Kinh phí cho công tác lập và tổ chức thực hiện quy hoạch đô thị
Điều 13. Nội dung quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị
Điều 14. Trách nhiệm quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị
Điều 15. Thanh tra quy hoạch đô thị
Mục 1. TỔ CHỨC LẬP QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
Điều 17. Định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia
Điều 18. Các loại quy hoạch đô thị
Điều 19. Trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch đô thị
Mục 2. LẤY Ý KIẾN VỀ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
Điều 20. Trách nhiệm lấy ý kiến về quy hoạch đô thị
Điều 21. Hình thức, thời gian lấy ý kiến
Mục 3. NHIỆM VỤ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
Điều 22. Yêu cầu đối với nhiệm vụ quy hoạch đô thị
Điều 23. Nội dung nhiệm vụ quy hoạch đô thị
Mục 4. LẬP ĐỒ ÁN QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
Điều 24. Căn cứ lập đồ án quy hoạch đô thị
Điều 25. Đồ án quy hoạch chung thành phố trực thuộc trung ương
Điều 26. Đồ án quy hoạch chung thành phố thuộc tỉnh, thị xã
Điều 27. Đồ án quy hoạch chung thị trấn
Điều 28. Đồ án quy hoạch chung đô thị mới
Điều 29. Đồ án quy hoạch phân khu
Điều 30. Đồ án quy hoạch chi tiết
Điều 31. Lập quy hoạch để cải tạo, chỉnh trang đô thị; phát triển khu đô thị mới và trục đường mới trong đô thị
Điều 33. Nội dung thiết kế đô thị
Điều 34. Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị
Mục 5. QUY HOẠCH HẠ TẦNG KỸ THUẬT ĐÔ THỊ
Điều 36. Đối tượng của quy hoạch hạ tầng kỹ thuật đô thị
Điều 37. Nội dung quy hoạch hạ tầng kỹ thuật đô thị
Điều 38. Đồ án quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật
Mục 6. ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯỜNG CHIẾN LƯỢC TRONG QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
Điều 39. Nội dung đánh giá môi trường chiến lược
Điều 40. Thẩm định nội dung đánh giá môi trường chiến lược
Chương IIITHẨM ĐỊNH, PHÊ DUYỆT QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
Điều 41. Cơ quan thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị
Điều 43. Nội dung thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị
Điều 44. Thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị
Điều 45. Hình thức và nội dung phê duyệt nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị
Chương IVĐIỀU CHỈNH QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
Điều 46. Rà soát quy hoạch đô thị
Điều 47. Điều kiện điều chỉnh quy hoạch đô thị
Điều 48. Nguyên tắc điều chỉnh quy hoạch đô thị
Điều 49. Các loại điều chỉnh quy hoạch đô thị
Điều 50. Trình tự tiến hành điều chỉnh tổng thể quy hoạch đô thị
Điều 51. Trình tự tiến hành điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị
Điều 52. Điều chỉnh đối với một lô đất trong khu vực quy hoạch
Chương VTỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ THEO QUY HOẠCH
Mục 1. TỔ CHỨC THỰC HIỆN QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
Điều 53. Công bố công khai quy hoạch đô thị
Điều 54. Trách nhiệm công bố công khai quy hoạch đô thị
Điều 55. Cung cấp thông tin về quy hoạch đô thị
Điều 56. Cấp chứng chỉ quy hoạch
Điều 57. Cắm mốc giới theo quy hoạch đô thị
Mục 2. QUẢN LÝ KHÔNG GIAN, KIẾN TRÚC, CẢNH QUAN ĐÔ THỊ
Điều 58. Nguyên tắc quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị
Điều 59. Trách nhiệm quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị
Điều 60. Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị
Mục 3. QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐÔ THỊ THEO QUY HOẠCH
Điều 61. Nguyên tắc quản lý và sử dụng đất đô thị
Điều 62. Chuẩn bị quỹ đất để phát triển đô thị theo quy hoạch
Mục 4. QUẢN LÝ XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÁC CÔNG TRÌNH HẠ TẦNG VÀ KHÔNG GIAN NGẦM ĐÔ THỊ THEO QUY HOẠCH
Điều 63. Quản lý đất dành cho xây dựng hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị
Điều 64. Quản lý xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị đối với các đô thị cũ, đô thị cải tạo
Điều 65. Quản lý xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị trong đô thị mới, khu đô thị mới
Điều 66. Quản lý không gian ngầm
Điều 67. Quản lý xây dựng công trình ngầm
Điều 68. Quản lý cây xanh, công viên, cảnh quan tự nhiên và mặt nước
Mục 5. QUẢN LÝ XÂY DỰNG THEO QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
Điều 69. Nguyên tắc quản lý xây dựng theo quy hoạch đô thị
Điều 72. Quản lý phát triển đô thị mới, khu đô thị mới
Điều 73. Quản lý cải tạo đô thị theo quy hoạch
Điều 75. Điều khoản chuyển tiếp
Điều 76. Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Trên đây là bài viết về Mục lục luật quy hoạch đô thị hiện hành - Luật ACC. Công ty Luật ACC tự hào là đơn vị hàng đầu hỗ trợ mọi vấn đề liên quan đến pháp lý, tư vấn pháp luật, thủ tục giấy tờ cho khách hàng là cá nhân và doanh nghiệp trên Toàn quốc với hệ thống văn phòng tại các thành phố lớn và đội ngũ cộng tác viên trên tất cả các tỉnh thành: Hà Nội, TP. HCM, Bình Dương, TP. Cần Thơ, TP. Đà Nẵng và Đồng Nai… Liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.
Nội dung bài viết:
Bình luận