Marginal Propensity to Save (MPS) là gì? MPS đề cập đến tỷ lệ của một tăng tổng thu nhập mà một người tiêu dùng tiết kiệm hơn là dành vào việc tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ. Nó có ý nghĩa gì trong lý thuyết kinh tế Keynes, được xác định như thế nào…
Bài viết của Công ty Luật ACC sẽ giải đáp các vấn đề trên
1. Khái niệm
- Xu hướng tiết kiệm cận biên ( MPS ) là phần thu nhập ngày càng tăng không được tiêu tốn và thay vào đó được sử dụng để tiết kiệm. Nó là độ dốc của đường biểu đồ tiết kiệm so với thu nhập.
- MPS định lượng mối quan hệ tiết kiệm-thu nhập, là mặt trái của mối quan hệ tiêu dùng-thu nhập, từ đó phản ánh quy luật tâm lý cơ bản
- MPS đề cập đến tỷ lệ tổng mức tăng thu nhập mà một người tiêu dùng tiết kiệm hơn là chi tiêu cho việc tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Nói cách khác, xu hướng tiết kiệm cận biên là tỷ lệ của mỗi đô la thu nhập tăng thêm được tiết kiệm hơn là chi tiêu.
- Phản ánh các khía cạnh quan trọng trong thói quen chi tiêu của một hộ gia đình vì tiết kiệm và tiêu dùng đi đôi với nhau. Nó cũng vẽ nên một bức tranh về số tiền tiết kiệm được từ nền kinh tế của một quốc gia.
2. Đặc điểm
- MPS được mô tả bằng một đường tiết kiệm: một đường dốc được tạo ra bằng cách vẽ biểu đồ thay đổi tiết kiệm trên trục y thẳng đứng và thay đổi thu nhập trên trục x nằm ngang.
- Xu hướng tiết kiệm cận biên là tỷ lệ gia tăng thu nhập được tiết kiệm thay vì chi tiêu cho tiêu dùng. MPS thay đổi theo mức thu nhập. MPS thường cao hơn ở mức thu nhập cao hơn. MPS giúp xác định hệ số nhân Keynes, mô tả tác động của việc tăng đầu tư hoặc chi tiêu của chính phủ như một biện pháp kích thích kinh tế.
- Với dữ liệu về thu nhập hộ gia đình và tiết kiệm của hộ gia đình, các nhà kinh tế có thể tính toán MPS của hộ gia đình theo mức thu nhập. Tính toán này rất quan trọng vì MPS không phải là hằng số; nó thay đổi theo mức thu nhập. Thông thường, thu nhập càng cao, MPS càng cao, vì khi sự giàu có tăng lên, khả năng thỏa mãn nhu cầu và mong muốn cũng tăng theo, và do đó, mỗi đô la tăng thêm ít có khả năng đi đến chi tiêu bổ sung. Tuy nhiên, vẫn có khả năng người tiêu dùng có thể thay đổi thói quen tiết kiệm và tiêu dùng khi tăng lương.
- Đương nhiên, với việc tăng lương, khả năng trang trải các chi phí trong gia đình dễ dàng hơn, cho phép tiết kiệm được nhiều thời gian hơn. Với mức lương cao hơn cũng có khả năng tiếp cận hàng hóa và dịch vụ đòi hỏi chi tiêu lớn hơn. Điều này có thể bao gồm việc mua sắm các phương tiện cao cấp hơn hoặc sang trọng hoặc chuyển đến một nơi ở mới đắt tiền hơn.
- Nếu các nhà kinh tế biết MPS của người tiêu dùng là gì, họ có thể xác định mức tăng chi tiêu của chính phủ hoặc chi tiêu đầu tư sẽ ảnh hưởng đến tiết kiệm như thế nào. MPS được sử dụng để tính số nhân chi tiêu theo công thức: 1 / MPS. Hệ số nhân chi tiêu cho chúng ta biết những thay đổi trong xu hướng tiết kiệm cận biên của người tiêu dùng ảnh hưởng như thế nào đến phần còn lại của nền kinh tế. MPS càng nhỏ, hệ số nhân càng lớn và sự thay đổi về chi tiêu hoặc đầu tư của chính phủ sẽ có nhiều tác động kinh tế hơn.
3. Công thức tính
- MPS có thể được tính bằng thay đổi trong tiết kiệm chia cho thay đổi thu nhập.
MPS = Thay đổi trong tiết kiệm: Thay đổi trong thu nhập
Hay về mặt toán học, hàm xu hướng tiết kiệm cận biên (MPS) được biểu thị dưới dạng đạo hàm của hàm tiết kiệm (S) đối với thu nhập khả dụng (Y).
- MPS = dS : dY
dS = Thay đổi trong Tiết kiệm
dY = Thay đổi thu nhập.
Vì MPS được đo bằng tỷ số giữa thay đổi tiết kiệm và thay đổi thu nhập, giá trị của nó nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Ngoài ra, xu hướng tiết kiệm cận biên đối lập với xu hướng tiêu dùng cận biên.
- Về mặt toán học, trong nền kinh tế đóng, MPS + MPC = 1, vì sự gia tăng một đơn vị thu nhập sẽ được tiêu dùng hoặc tiết kiệm.
Nếu MPS = 0,4, thì MPC = 1 – 0,4 = 0,6.
Giá trị của xu hướng tiết kiệm cận biên của người giàu hơn là xu hướng tiết kiệm cận biên của người nghèo hơn. Nếu thu nhập của cả hai bên tăng thêm 1 đô la, thì xu hướng tiết kiệm của người giàu hơn sẽ nhiều hơn xu hướng tiết kiệm của người nghèo hơn.
- Độ dốc của đường lưu
Xu hướng tiết kiệm cận biên cũng được sử dụng như một thuật ngữ thay thế cho độ dốc của đường tiết kiệm. Độ dốc của đường tiết kiệm được cho bởi phương trình S = -a + (1-b) Y
- -a: đến tiết kiệm tự chủ.
- (1-b) đề cập đến xu hướng tiết kiệm cận biên. (ở đây b đề cập đến xu hướng tiêu dùng cận biên nhưng vì MPC + MPS = 1, do đó (1-b) đề cập đến MPS)
- Trong sơ đồ này, hàm tiết kiệm là một hàm tăng của thu nhập khả dụng, tức là tiết kiệm tăng khi thu nhập tăng.
– Hiệu ứng số nhân: Một hàm ý quan trọng của xu hướng tiết kiệm cận biên là phép đo hệ số nhân. Hệ số nhân đo lường sự thay đổi lớn trong tổng sản phẩm, tức là tổng sản phẩm quốc nội, do sự thay đổi của một biến số tự trị (ví dụ: chi tiêu của chính phủ, chi tiêu đầu tư, v.v.).
- Tác động của sự thay đổi trong sản xuất tạo ra tác động nhân lên vì nó tạo ra thu nhập và tiếp tục tạo ra tiêu dùng. Tuy nhiên, kết quả là tiêu dùng cũng là một chi tiêu do đó tạo ra nhiều thu nhập hơn, tạo ra nhiều tiêu dùng hơn. Vòng tiêu dùng tiếp theo này dẫn đến sự thay đổi hơn nữa trong sản xuất, tạo ra thu nhập nhiều hơn và dẫn đến tiêu thụ nhiều hơn.
- Và do đó, khi nó tiếp tục diễn ra, nó dẫn đến sự thay đổi lớn, nhân lên trong tổng sản xuất ban đầu được kích hoạt bởi sự thay đổi trong biến số tự động, nhưng được khuếch đại bởi việc tạo ra nhiều thu nhập hơn và tăng tiêu dùng.
– Hàm ý toán học: Về mặt toán học, hiệu ứng trên có thể được phát biểu là:
- Trong vòng 1, có một sự thay đổi trong một biến tự trị (giả sử chính phủ đầu tư vào một dự án làm cầu mà nó tiếp cận một công ty xây dựng) với số tiền là $ 1 (chỉ là một giả định để đơn giản hóa). Bây giờ, hãy đặt xu hướng tiêu dùng cận biên của công ty xây dựng là ‘c’. Do đó, công ty xây dựng sẽ chi một số tiền c × $ 1, tức là $ c.
- Trong vòng 2, công ty xây dựng phải chịu chi phí (c $) bằng cách mua nguyên liệu thô, chẳng hạn như xi măng, thép, sỏi, vữa, v.v. từ các công ty tương ứng và do đó, số tiền $ c này trở thành thu nhập của các công ty này. Bây giờ một lần nữa xu hướng tiêu dùng cận biên của các công ty này cũng giống như công ty xây dựng ở mức ‘c’ và do đó, mức tiêu dùng của họ trở thành c × $ c tức là $ c2.
Nội dung bài viết:
Bình luận