Ở Việt Nam, với vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng và hoạt động của ngân hàng cũng như chính sách tiền tệ quốc gia trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ ngân hàng được luật hóa và có cơ chế điều chỉnh riêng đặc thù. Tuy nhiên không tránh khỏi trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật có những sai sót dẫn tới bất cập và hạn chế cần phải được sửa đổi, bổ sung. Do đó để hiểu hơn về vấn đề này, mời các bạn hãy tham khảo bài viết dưới đây Công ty Luật ACC về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước [2023].
1. Giới thiệu Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện hành
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 và thay thế Luật NHNN số 01/1997/QH10 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật NHNN số 10/2003/QH11. Luật NHNN (mới) đã tạo cơ sở pháp lý để nâng cao vai trò quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, nâng cao trách nhiệm, quyền hạn của NHNN trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), bảo đảm sự vận hành an toàn, hiệu quả của các hệ thống thanh toán, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, cũng phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết và thông lệ, chuẩn mực quốc tế về ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập quốc tế của nền kinh tế Việt Nam.
2. Một số điều được sửa đổi bổ sung so với Luật ngân hàng Nhà nước trước đây
Luật NHNN số 46/2010/QH12 (sau đây viết tắt là Luật NHNN 2010) gồm 7 chương và 66 điều, có nhiều nội dung thay đổi, sửa đổi so với Luật NHNN năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2003, tập trung vào những nội dung quan trọng sau đây:
- Vị trí của Ngân hàng Nhà nước
Xây dựng NHNN trở thành một Ngân hàng Trung ương (NHTW) hiện đại có tính tự chủ và tính độc lập cao là một định hướng lớn của Đảng và Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đây là một việc lớn cần có những bước đi thích hợp và đòi hỏi phải có một quá trình chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho hoạt động của một NHTW; theo đó, những năm tới đây, cần tăng cường tính chủ động và tính trách nhiệm của NHNN trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ (CSTT) vừa bảo đảm linh hoạt trong điều hành CSTT, vừa bảo đảm tính đồng bộ trong hệ thống chính sách kinh tế tài chính quốc gia.
Trên cơ sở các điều kiện đặc thù về thể chế chính trị, kinh tế - xã hội của Việt Nam và mức độ hội nhập của nền kinh tế cũng như nguồn lực của Việt Nam, Điều 2 Luật NHNN 2010 quy định địa vị pháp lý của NHNN là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, là NHTW của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mặc dù địa vị pháp lý của NHNN như quy định tại Điều 2 Luật NHNN 2010 không có thay đổi lớn so với quy định tại Luật NHNN 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung 2003, tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ các quy định của Luật NHNN 2010 trong mối tương quan so sánh với Luật NHNN 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung 2003 thì thấy rằng, về mặt pháp lý, thẩm quyền của NHNN đã được nâng cao rõ rệt thông qua các quy định mới liên quan đến cơ cấu tổ chức, thực hiện các chức năng của NHNN thông qua việc tham gia hoạt động trên thị trường, sử dụng các công cụ để điều tiết thị trường, hoạt động của các TCTD.
- Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước
Cơ cấu của NHNN vừa phản ánh cơ cấu tổ chức của một cơ quan ngang Bộ, vừa thể hiện cơ cấu tổ chức đặc thù của một NHTW. NHNN được tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất, gồm bộ máy điều hành và các đơn vị hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị trực thuộc khác. Với vị thế là cơ quan ngang Bộ, Chính phủ quy định cơ cấu tổ chức của NHNN. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các đơn vị thuộc NHNN do Thống đốc NHNN quy định. NHNN là một NHTW. Vì vậy, Thống đốc NHNN quyết định cơ cấu mạng lưới chi nhánh, văn phòng đại diện của NHNN.
Bên cạnh đó, Thống đốc NHNN còn có thẩm quyền quyết định thành lập, chấm dứt hoạt động các đơn vị trực thuộc NHNN hoạt động trong các lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng, nghiên cứu, thông tin, lý luận khoa học ngân hàng, cung cấp dịch vụ liên quan đến hoạt động kho quỹ, dịch vụ công nghệ tin học ngân hàng và thanh toán, dịch vụ thông tin tín dụng.
- Chính sách tiền tệ quốc gia
Luật quy định rõ khái niệm CSTT quốc gia để làm cơ sở xây dựng thẩm quyền của các cơ quan (Quốc hội, Chính phủ, NHNN) đối với CSTT. Theo đó, CSTT quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra (Điều 3).
Về thẩm quyền quyết định CSTT quốc gia, Luật cụ thể hóa được vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước trong việc quyết định và thực thi CSTT quốc gia phù hợp Hiến pháp. Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện CSTT quốc gia. Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm. Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu CSTT quốc gia theo quy định của Chính phủ (Điều 3).
Luật NHNN đã nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của NHNN trong việc xây dựng và thực thi CSTT.
Luật quy định rõ thẩm quyền của Thống đốc NHNN trong việc quyết định sử dụng công cụ thực hiện CSTT quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác.
Đối với công cụ tái cấp vốn, đối tượng áp dụng đã được mở rộng cho các TCTD chứ không chỉ là các ngân hàng như quy định hiện hành. Đối với công cụ lãi suất, Luật quy định thẩm quyền của NHNN trong việc công bố lãi suất điều hành CSTT, lãi suất cơ bản để chống cho vay nặng lãi và quyết định cơ chế điều hành lãi suất giữa các TCTD và khách hàng trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường nhằm ổn định thị trường, tránh tác động bất lợi cho nền kinh tế. Quy định mới về công cụ lãi suất vừa đảm bảo để NHNN điều hành, thực thi CSTT theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, vừa có cơ sở để áp dụng quy định của các luật liên quan như Bộ luật Dân sự, Hình sự, Lao động, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước... Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để NHNN thay đổi nội hàm lãi suất cơ bản theo hướng lãi suất cơ bản không phải là cơ sở để cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh, mà làm cơ sở cho việc phòng, chống cho vay nặng lãi trong nền kinh tế.
Về công cụ tỷ giá, Luật quy định NHNN quyết định chế độ tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá nhằm nâng cao thẩm quyền của NHNN trong điều hành CSTT. Đối với công cụ dự trữ bắt buộc, Luật bỏ quy định về giới hạn tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 0% đến 20 % để bảo đảm sự linh hoạt trong điều hành CSTT của NHNN, đồng thời nâng cao thẩm quyền
- Về tạm ứng cho ngân sách nhà nước
Luật NHNN quy định bảo đảm sự thống nhất với Luật Ngân sách nhà nước. Theo đó, NHNN tạm ứng cho ngân sách trung ương để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Khoản tạm ứng này phải được hoàn trả trong năm ngân sách, trừ trường hợp đặc biệt do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định (Điều 26). Quy định này bảo đảm nguyên tắc NHTƯ không phát hành tiền cho chi tiêu ngân sách, đồng thời vẫn xử lý được vấn đề thiếu hụt tạm thời của ngân sách trung ương.
- Quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước
Việc quy định NHNN quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước theo quy định của Chính phủ bảo đảm sự thống nhất với pháp luật hiện hành về quản lý ngoại hối. Trong trường hợp việc sử dụng dự trữ ngoại hối làm thay đổi dự toán ngân sách nhà nước thì thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách (Điều 32). Kể từ khi hình thành vào năm 1991 đến nay, Dự trữ ngoại hối nhà nước của Việt Nam được Chính phủ giao NHNN quản lý luôn đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm nguồn lực để thực thi CSTT quốc gia, chính sách tỷ giá, đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế và đáp ứng nhu cầu ngoại hối đột xuất cấp bách của Nhà nước.
Dự trữ ngoại hối là một hạng mục tài sản Có trong Bảng cân đối của NHNN và được coi là một tài sản bảo đảm cho giá trị tiền trong lưu thông. Dự trữ ngoại hối nhà nước được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó chủ yếu là để can thiệp thị trường ngoại hối nhằm ổn định giá trị đồng tiền thông qua nghiệp vụ mua, bán ngoại tệ với các TCTD.
- Thanh tra, giám sát ngân hàng
Vai tròi, nhiệm vụ của NHNN trên lĩnh vực thanh tra, giám sát cũng được điều chỉnh để tăng cường thẩm quyền trong xử lý. Luật quy định theo hướng khẳng định thẩm quyền của NHNN trong toàn bộ quá trình giám sát an toàn hoạt động của TCTD từ khâu cấp phép, xây dựng quy chế an toàn, theo dõi, giám sát hoạt động, can thiệp khi phát sinh khó khăn và chủ động xử lý khi có nguy cơ đổ vỡ.
+ Quy định của Luật NHNN khẳng định sự khác biệt về bản chất giữa thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng với thanh tra hành chính thông thường thông qua việc đưa ra nguyên tắc cho hoạt động thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng như sau: Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện theo quy định của Luật NHNN và các quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về thanh tra, giám sát ngân hàng của Luật NHNN với quy định của luật khác thì thực hiện theo quy định của Luật NHNN; Thống đốc NHNN quy định trình tự, thủ tục thanh tra, giám sát ngân hàng (Điều 51).
+ Luật quy định nguyên tắc thực hiện thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng là kết hợp thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng...
+ Mở rộng phạm vi giám sát đối với toàn bộ hoạt động một TCTD, kể cả các hoạt động thông qua các công ty con của các TCTD: Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện trên nguyên tắc thanh tra, giám sát toàn bộ hoạt động của TCTD... (khoản 3 Điều 51); Trong trường hợp cần thiết, NHNN yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra hoặc phối hợp thanh tra công ty con, công ty liên kết của TCTD... (khoản 1 Điều 52); bổ sung vào Điều 56 quy định trong trường hợp cần thiết, NHNN yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát hoặc phối hợp giám sát công ty con, công ty liên kết của TCTD.
+ Nội dung thanh tra, giám sát được quy định cụ thể, phản ảnh tính ổn định trong thực tiễn, thông lệ và yêu cầu mới đối với hoạt động thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng, tập trung xem xét, đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro và tình hình tài chính của đối tượng thanh tra ngân hàng (Điều 55); Xem xét, theo dõi tình hình chấp hành các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng... ; Phân tích, đánh giá tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành và mức độ rủi ro của TCTD; Phát hiện, cảnh báo rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng và nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; Kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý rủi ro, vi phạm pháp luật (Điều 58).
+ Thẩm quyền của NHNN trong việc can thiệp, xử lý “sớm” các TCTD đã được quy định cụ thể hơn nhằm ngăn chặn kịp thời những khả năng đổ vỡ: NHNN có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý đặc biệt đối với TCTD vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng, gồm mua cổ phần của TCTD; đình chỉ, tạm đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, người điều hành của TCTD; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải thể TCTD; đặt TCTD vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về phá sản đối với TCTD (khoản 12 Điều 4).
+ Để bảo đảm kỷ luật trong hoạt động ngân hàng, các chế tài và thẩm quyền xử lý của NHNN đối với các TCTD đã được cụ thể hoá rất rõ trong Luật NHNN (Điều 59).
- Quản lý nhà nước đối với bảo hiểm tiền gửi
Hoạt động bảo hiểm tiền gửi gắn chặt với hoạt động ngân hàng và khách hàng gửi tiền tại TCTD. Để bảo đảm có cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi, Luật đã có quy định mang tính nguyên tắc về thẩm quyền quản lý nhà nước của NHNN đối với bảo hiểm tiền gửi: “ Thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.” (khoản 14 Điều 4).
- Góp vốn thành lập doanh nghiệp
NHNN góp vốn thành lập doanh nghiệp không nhằm mục tiêu kinh doanh thu lợi nhuận, mà nhằm thực thi một sô chức năng, nhiệm vụ của NHNN. Theo thực tiễn hoạt động của NHNN và kinh nghiệm của một số nước, NHNN chỉ tham gia góp vốn để thành lập một số doanh nghiệp đặc biệt nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần đảm bảo an toàn, hiệu quả trong hoạt động của mình và của các TCTD, bảo đảm lợi ích của tất cả các TCTD, người sử dụng dịch vụ ngân hàng và sự kiểm soát của Nhà nước (như tham gia góp vốn vào Banknetvn...). NHNN không tham gia góp vốn vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác ngoài chức năng nhiệm vụ của NHNN. Để bảo đảm tính khách quan, Luật có quy định cho phép NHNN được sử dụng vốn pháp định để góp vốn thành lập doanh nghiệp đặc thù nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của NHNN theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Điều 4).
- Đối với mở tài khoản của Kho bạc Nhà nước
Luật có quy định liên quan đến việc mở tài khoản của Kho bạc Nhà nước tại NHNN. Theo đó, về nguyên tắc, Kho bạc Nhà nước phải mở tài khoản tại NHNN. Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không có chi nhánh của NHNN, việc thực hiện các giao dịch cho Kho bạc Nhà nước theo quy định của NHNN (Điều 27). Quy định này nhằm mục tiêu bảo đảm NHNN có thể điều hành CSTT một cách chặt chẽ, hiệu quả và bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.
- Tính minh bạch và trách nhiệm giải trình
Nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN được nâng cao gắn liền với tính minh bạch trong hoạt động và trách nhiệm giải trình của NHNN. Luật quy định rõ trách nhiệm giải trình, báo cáo của NHNN trước Quốc hội, Chính phủ và công chúng (Điều 73, Điều 40). Đây là nội dung mới, quan trọng trong hoạt động của NHTW nhằm minh bạch hóa, công khai hóa các quyết định trong điều hành của mình không những với cơ quan cấp trên mà còn với công chúng, thị trường. Nguồn thông tin là những dữ liệu rất quan trọng để NHNN xây dựng chính sách, đánh giá diễn biến thị trường và đưa ra các quyết định điều tiết. Do đó, các quy định liên quan đến nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức trong việc cung cấp thông tin, số liệu cho NHNN đã được cụ thể hoá trong Luật (Điều 35, Điều 40).
3. Hiệu lực của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện hành
- Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011.
- Tình trạng hiệu lực: Hiện nay, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 là văn bản pháp luật hiện hành và vẫn có hiệu lực áp dụng trên phạm vi toàn quốc.
Trên đây là tất cả thông tin về Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ngân hàng nhà nước [2023] mà Công ty Luật ACC cung cấp tới các bạn đọc giả. Nếu các bạn đọc giả còn có bất kỳ thắc mắc hay góp ý nào liên quan đến bài viết hoặc những vấn đề pháp lý khác hãy liên hệ với Công ty Luật ACC để nhận được sự hỗ trợ từ đội ngũ luật sư và các tác giả. Chúng tôi luôn sẵn lòng giải đáp thắc mắc của các bạn đọc. Trân trọng!
Nội dung bài viết:
Bình luận