Hoạt động đầu tư ra nước ngoài không đơn thuần đem lại lợi ích kinh doanh cho nhà đầu tư mà còn đem về những mặt tích cực cho kinh tế - xã hội trong nước qua việc mở rộng thị trường, tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Tuy nhiên, ngay từ giai đoạn đầu, nhà đầu tư và dự án phải đáp ứng những điều kiện nhất định của pháp luật trong nước. Đây là những quy định tiên quyết để được phép tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ đề cập đến những lợi ích của việc đầu tư ra nước ngoài. Mời bạn đọc theo dõi.
1. Đầu tư nước ngoài là gì?
Trước đây, tại khoản 1 Điều 2 theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1996), sửa đổi, bổ sung năm 2000 định nghĩa:
Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này
Như vậy, việc bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh theo các hình thức được Luật này cho phép, thực chất chỉ là các quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, trong khi nhiều hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài khác như các doanh nghiệp đặt chi nhánh hay văn phòng đại diện hoặc các hoạt động đầu tư gián tiếp thì đều không được pháp luật điều chỉnh.
Cho đến khi Luật Đầu tư (năm 2005) được ban hành thì phạm vi điều chỉnh mối được mở rộng thành các hoạt động đầu tư chung, gồm cả việc thực hiện đầu tư ở trong nước và của nước ngoài. Tại khoản 1 Điều 3 Luật đã đưa ra định nghĩa:
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốh bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan
Đến Luật Đầu tư năm 2014, khái niệm đầu tư, đầu tư trực tiếp hay đầu tư gián tiếp nước ngoài đã không còn xuất hiện nữa mà chỉ còn duy nhất một khái niệm đó là “Đầu tư kinh doanh”. Theo khoản 5 Điều 3, hoạt động đầu tư chính là:
Việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốh góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư
Định nghĩa nhà đầu tư nước ngoài trong khoản 14 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014 là:
cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam
2. Vai trò đầu tư nước ngoài đối với quốc gia nhận đầu tư
2.1 Vốn, công nghệ và kỹ thuật quản lý (chuyển giao nguồn lực)
Đối với một nước lạc hậu, trình độ sản xuất thấp kém, năng lực sản xuất chưa được phát huy kèm với cơ sở vật chất, kỹ thuật nghèo nàn thì việc tiếp thu được một nguồn vốn lớn, công nghệ phù hợp để tăng năng suất và cải tiến chất lượng sản phẩm, nâng cao trình độ quản lý là một điều hết sức cần thiết vì công nghệ là trung tâm của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số quốc gia đang phát triển. Khi đầu tư trực tiếp diễn ra thì công nghệ mới được du nhập vào nước nhận đầu tư, trong đó có cả một số công nghệ bị cấm xuất khẩu theo con đường ngoại thương; chuyên gia cùng với các kỹ năng quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công nghệ này, từ đó công chức, viên chức nhà nước, người lao động, doanh nghiệp bản địa có thể học hỏi kinh nghiệm của họ.
Những hoạt động chuyển giao công nghệ (bao gồm cả năng lực quản lý và marketing) khó đo lường hơn so với các luồng chảy vào và phần lớn việc chuyển giao đã diễn ra ở công ty mẹ ở nước ngoài và các chi nhánh của chúng. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng tầm quan trọng của hoạt động chuyển giao công nghệ trong nội bộ các công ty như thế tùy thuộc vào những chuyển giao từ các phía khác nhau.
2.2 Tăng năng suất, thu nhập quốc dân và thúc đẩy cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh tế
Công nghệ và trình độ quản lý được cải thiện đối với các ngành sản xuất thì việc tăng năng suất lao động là điều tất yếu. Không những thế, công nghệ tiên tiến còn cho ra nhiều sản phẩm hơn, có chất lượng cao, tính năng đa dạng, bền hơn với những mẫu mã đa dạng và tất nhiên giá thành sẽ rẻ hơn so với trước. Đây chính là hoạt động tăng nguồn cung nhưng thực ra cung tăng lên để đáp ứng lại lượng cầu cũng tăng lên rất nhanh do quá trình đầu tư tác động vào. Tốc độ quay của vòng vốn nhanh hơn, do vậy sản phẩm cũng được sản xuất ra nhiều hơn và tiêu thụ cũng nhiều hơn. Do sự tiêu thụ được tăng lên mà các ngành sản xuất, dịch vụ được tiếp thêm một luồng sức sống mới, nhân lực, máy móc và các nguyên vật liệu được đem ngay vào sản xuất, từ đó sức đóng góp của các ngành này vào GDP cũng đã tăng lên.
Việc có được những công ty có hiệu quả với khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới có thể đưa lại một sự khai thông quan trọng, tiềm tàng cho việc chuyển giao các kỹ năng quản lý và công nghệ cho các nước chủ nhà. Điểu này có thể xảy ra ở bên trong một ngành công nghiệp riêng rẽ, trong đó có những người cung ứng các đầu vào cho các chi nhánh nước ngoài, những người tiêu dùng trong nước đối với các sản phẩm của chi nhánh này và những đối thủ cạnh tranh của chúng, tất cả đều muốn lựa chọn những phương pháp kỹ thuật có hiệu quả hơn. Nó cũng có thể diễn ra một cách rộng rãi hơn trong nội bộ nền kinh tế thông qua sự tăng cường có kết quả công tác đào tạo, kinh nghiệm của lực lượng lao động và thông qua sự khuyến khích có thể có đôì vối các ngành hỗ trợ tài chính và kỹ thuật có khả năng dẫn tới sự hạ thấp toàn bộ chi phí công nghiệp. Đầu tư nước ngoài cũng góp phần cải thiện cán cân thanh toán, đặc biệt khi doanh nghiệp tại quốc gia nhận đầu tư tăng thu lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu.
2.3 Khuyến khích năng lực kinh doanh trong nước
Khi đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào các thị trường vốn hiện có mà các nhà đầu tư trong nước chiếm giữ phần lớn thị phần, tuy nhiên ưu thế này sẽ không kéo dài đối với nhà đầu tư trong nước khi nguồn lực, công nghệ của nhà đầu tư nước ngoài vượt trội hơn. Chính vì vậy, muốn tồn tại, các nhà đầu tư trong nước phải đổi mới cả quá trình sản xuất của mình từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ bằng việc cải tiến công nghệ và nâng cao trình độ, phương pháp quản lý để có thể trụ vững trên thị trường đó. Đây chính là một trong những thử thách tất yếu của nền kinh tế thị trường đôì vối các nhà sản xuất trong nước, vối quy luật là không có kẻ yếu nào có thể tồn tại nếu không tự làm mình mạnh lên để tồn tại, phát triển trong cơ chế đó.
2.4 Tiếp cận với thị trường nước ngoài
Nếu như là trước đây khi chưa có FDI, các doanh nghiệp trong nước chỉ biết đến có thị trường trong nước, nhưng khi có FDI thì họ được làm quen với các đối tác kinh tê mới từ nước ngoài. Họ chắc chắn sẽ nhận thấy rất nhiều nơi cần cái họ đang có và ngược lại họ cũng đang cần những cái ỏ nơi đối tác đang có. Điều này dẫn tới nhu cầu phải tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp trong nước và ngoài nước mà hệ quả của nó là có nhiều sản phẩm của một quốc gia được xuất khẩu để thu ngoại tệ về cho đất nước, đồng thời cũng cần phải nhập khẩu một số loại mặt hàng mà trong nước đang cần. Việc trao đổi thương mại này sẽ lại thúc đẩy các công cuộc đầu tư quốc tế giữa các nước vối nhau. Như vậy, quá trình đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế có quan hệ biện chứng, là một quá trình luôn luôn thúc đẩy nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển.
2.5 Tạo sự chuyển, đổi cơ cấu kinh tế trong nước
Đầu tư nước ngoài góp phần tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước sở tại theo chiều hướng tích cực hơn, thường tập trung vào những ngành công nghệ cao có sức cạnh tranh như công nghiệp hay thông tin. Nếu quốc gia nhận đầu tư là một nước nông nghiệp thì sau một thời gian mở cửa cho FDI, trong cơ cấu kinh tế các ngành đòi hỏi cao hơn như công nghiệp và dịch vụ đã tăng lên về tỷ trọng và sức đóng góp cho ngân sách, GDP và cho xã hội nói chung. Ngoài ra về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư nước ngoài có tác dụng giải quyết một số mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, đưa những tiềm năng chưa khai phá vào quá trình sản xuất và dịch vụ và làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác nhau cùng phát triển.
Bên cạnh những lợi ích như đã nêu trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể đi kèm với một số bất cập, rủi ro như tác động tiêu cực đến sức cạnh tranh của các ngành kinh tế trong nước; thông qua đầu tư, nước ngoài có thể can thiệp vào các hoạt động chính trị nội bộ hoặc rủi ro an ninh khi đầu tư nước ngoài kiểm soát các ngành công nghiệp, doanh nghiệp chiến lược hoặc mang lại hệ quả không tốt cho quốc gia nhận đầu tư khi nhà đầu tư nước ngoài sử dụng công nghệ lạc hậu, không thích hợp, gây ô nhiễm môi trường, làm tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt hoặc lợi dụng đầu tư để rửa tiền, tác động có hại đến văn hóa bản địa, sức khỏe và an toàn của ngưòi dân.
Chính vì vậy, nhìn chung không có quốc gia nào tuyệt đối hóa rằng đầu tư nước ngoài chỉ có lợi mà không chứa đựng rủi ro, tác động tiêu cực. Đổ tối ưu hóa các ích lợi và giảm thiểu các tác hại, các quốc gia áp dụng những biện pháp chính sách khuyến khích và điều tiết ở cả phạm vi quốc gia và quốc tế, trong cả nội luật và các điều ước quốc tế mà họ ký kết.
3. Vai trò đầu tư nước ngoài đối với nhà đầu tư nước ngoài
ACC chuyên dịch vụ đầu tư nước ngoài
Liên hệ 19003330 hoặc 0846967979 (zalo) để được tư vấn, báo phí ngay!
Mục tiêu căn bản nhất của nhà đầu tư nước ngoài là tối đa lợi nhuận và tránh các rủi ro phát sinh khi đầu tư kinh doanh ở nước ngoài.
Mục đích kinh tế của cá nhân, doanh nghiệp cũng như của một quốc gia thường là lợi nhuận và lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Do đó, một khi thị trường trong nước hay các thị trường quen thuộc bị tràn ngập những sản phẩm của họ và sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh thì họ buộc phải đầu tư sang nước khác để tiêu thụ số sản phẩm đó nếu muốn tiếp tục phát triển hoặc không bị phá sản. Trong khi đầu tư ra nước ngoài, họ chắc chắn sẽ tìm thấy ở nước sở tại những lợi thế so sánh so với thị trường cũ như giá lao động rẻ hay tài nguyên chưa bị khai thác nhiều. Hơn nữa, hàng hóa, dịch vụ được tiêu thụ ở thị trường nước ngoài có khả năng táng uy tín và sức cạnh tranh. Ngoài ra, một trong những mục tiêu mà nhà đầu tư nước ngoài có thể hướng tới là bán máy móc và công nghệ cũ kỹ lạc hậu hay bị hao mòn vô hình do thời gian với giá cao nhưng lại là mới đôì với nước nhận đầu tư (khi nước đầu tư là nước đang hoặc chậm phát triển).
4. Vai trò đầu tư nước ngoài đối với quốc gia của nhà đầu tư
Hình thức đầu tư trực tiếp ra nưóc ngoài là cách thức để một quốc gia có thể mỏ rộng và nâng cao quan hệ hợp tác về nhiều mặt đốì với các quốc gia khác mà công dân, doanh nghiệp của mình đến đầu tư kinh doanh. Việc này có thể mang lại một số lợi ích cho quốc gia của nhà đầu tư, như: Quan hệ kinh tế, chính trị với nước nhận đầu tư được tăng cường; quan hệ thương mại với nước nhận đầu tư cũng có thể gia tăng và nhà đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, khi thị trường trong nước của quốc gia có nhà đầu tư, sản phẩm đó đang thừa mà nước sở tại lại thiếu; khai thác được các nguồn tài nguyên thiên nhiên nước ngoài, giải quyết công ăn việc làm cho một số lao động vì khi đầu tư sang quốc gia khác thì nước đó phải cần đưa sang những người hướng dẫn kỹ thuật, người quản lý hay còn gọi là các chuyên gia trong lĩnh vực đang thực hiện đầu tư; đồng thời, tránh được việc phải khai thác quá mức các nguồn lực trong nước, như tài nguyên thiên nhiên hay ô nhiễm môi trường; có nguồn lợi nhuận của nhà đầu tư ở nước ngoài chuyển về nước.
Tuy nhiên, quốc gia mà nhà đầu tư có quốc tịch có thể gặp một số bất lợi như dòng vốh chuyển ra nước ngoài đáng lẽ có thể sử dụng hiệu quả hơn ở trong nước, các tác động tiêu cực khi có ngành công nghiệp chuyển ra nước ngoài, nhà máy đóng cửa, nhân công bị mất việc làm, mất nguồn thu thuế từ các khoản đầu tư chuyển ra nước ngoài. Quan hệ đầu tư đôi khi gây phức tạp thêm quan hệ ngoại giao khi có xung đột phát sinh giữa nhà đầu tư nước ngoài và nước nhận đầu tư.
Do đó, mỗi quốc gia có chính sách khuyến khích đầu tư ra nước ngoài khác nhau nhằm tối đa lợi ích và giảm thiểu tác động tiêu cực từ việc đó. Ký kết các điều ước quốc tế về đầu tư là một biện pháp nhằm khuyến khích và bảo đảm an toàn pháp lý cho hoạt động đầu tư kinh doanh của công dân, doanh nghiệp của một nước ở nước khác.
5. Những câu hỏi thường gặp
Cách tránh những thủ tục phức tạp khi thành lập doanh nghiệp FDI?
– Lựa chọn, mục đích của nhà đầu tư nước ngoài; Nguồn vốn để thực hiện dự án;
– Quy mô dự án; Lĩnh vực mà nhà đầu tư nước ngoài muốn kinh doanh; Pháp luật chuyên ngành cho từng lĩnh vực đầu tư; Hiệp định thương mại giữa quốc gia của nhà đầu tư và Việt Nam; Các công ước quốc tế mà hai bên cùng ký kết.
Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào doanh nghiệp Việt Nam không thuộc trường hợp bị hạn chế về:
– Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại công ty niêm yết, công ty đại chúng, tổ chức kinh doanh chứng khoán và các quỹ đầu tư chứng khoán theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, phần vốn góp của công ty doanh nghiệp theo các hình thức nào?
– Mua cổ phần của công ty cổ phần từ công ty hoặc cổ đông. Mua phần vốn góp của các thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn để trở thành thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn. Mua phần vốn góp của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh để trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh. Mua phần vốn góp của thành viên tổ chức kinh tế khác không thuộc trường hợp quy định trên.
Nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế trong các trường hợp nào?
– Nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài.
– Việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp dẫn đến nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên của tổ chức kinh tế.
Trên đây là lợi ích của việc đầu tư ra nước ngoài. Nếu có thắc mắc liên quan, bạn đọc vui lòng liên hệ với ACC để được hỗ trợ tư vấn.
Nội dung bài viết:
Bình luận