Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Lỗi cố ý trực tiếp theo quy định pháp luật là gì? Để biết thêm thông tin chi tiết, mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết sau:
1. Quy định về lý trí đối với lỗi cố ý trực tiếp
Người phạm tội nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình (được hiểu là tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội)(1) và thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi đó.
Nhận thức rõ tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi là sự nhận thức trên cơ sở nhận thức những tình tiết khách quan tạo nên tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi. Những tình tiết đó có thể là mặt thực tế của hành vi, là đặc điểm của đối tượng tác động của tội phạm, là những điều kiện khách quan như công cụ, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội...
Ở các tội có cấu thành tội phạm (CTTP) vật chất, hậu quả thiệt hại là dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm nên người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp không chỉ nhận thức được tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi của mình mà khi thực hiện hành vi cũng thấy trước được hậu quả thiệt hại của hành vi.
Thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi là nhận thức vượt trước, là dự kiến của người phạm tội về hậu quả đó. Người phạm tội có thể dự kiến hành vi tất nhiên sẽ gây ra hậu quả thiệt hại hoặc dự kiến hành vi có thể gây ra hậu quả thiệt hại.
Ở các tội có cấu thành tội phạm hình thức, hậu quả thiệt hại không phải là dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm nên vấn đề có thấy trước hay không thấy trước hậu quả thiệt hại không được đặt ra khi xem xét lí trí của người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.
Nếu hậu quả thiệt hại được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt trong cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt thì cũng đòi hỏi phải xác định người phạm tội thấy trước hậu quả thiệt hại để khẳng định người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp đối với hậu quả thiệt hại.
Nhận thức rõ tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi và thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi là hai nội dung của yếu tố lí trí có liên quan chặt chẽ với nhau. Thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi là kết quả và là sự cụ thể hoá sự nhận thức tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi. Trái lại, nhận thức rõ tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi là cơ sở cho việc thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi.
2. Quy định về ý chí đối với lỗi cố ý trực tiếp
Người phạm tội mong muốn hậu quả thiệt hại phát sinh.
Điều này có nghĩa hậu quả thiệt hại của hành vi mà người phạm tội thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích - phù hợp với sự mong muốn của người đó. Ở đây, sở dĩ không đặt vấn đề mong muốn hay không mong muốn hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội vì khi đã nhận thức được tính chất của hành vi mà vẫn thực hiện thì đã có nghĩa chủ thể mong muốn thực hiện hành vi đó.
Ở các tội có cấu thành tội phạm vật chất, hậu quả thiệt hại được quy định là dấu hiệu của cấu thành tội phạm nên việc kiểm tra ý chí của người phạm tội đối với hậu quả thiệt hại đã thấy trước là cần thiết để có thể khẳng định có lỗi cố ý trực tiếp hay không.
Ở các tội có cấu thành tội phạm hình thức, hậu quả thiệt hại không được quy định là dấu hiệu của cấu thành tội phạm nên việc xác định ý chí đối với hậu quả thiệt hại không được đặt ra. Muốn xác định người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp chỉ cần xác định người đó nhận thức được tính gây thiệt hại cho xã hội cùa hành vi mà vẫn thực hiện hành vi đó.
Nếu hậu quả thiệt hại cho xã hội được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt trong cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc được xem xét là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt thì việc chứng minh lỗi cố ý trực tiếp đối với hậu quả thiệt hại cũng đòi hỏi phải xác định ý chí của người phạm tội đối với hậu quả thiệt hại.
3. Phân biệt lỗi cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp và vô ý do cẩu thả
| Tiêu chí | Lỗi cố ý trực tiếp | Lỗi cố ý gián tiếp | Lỗi vô ý do cẩu thả |
| Căn cứ pháp lý | Khoản 1 Điều 10 Bộ luật hình sự năm 2015 (bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017) | Khoản 2 Điều 10 BLHS 2015 | Khoản 2 Điều 11 BLHS 2015 |
| Khái niệm | Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; | Người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra
|
Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. |
| Về mặt lý trí | Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội | Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội | Phải thấy trước hậu quả nhưng lại không thấy trước được hậu quả đó |
| Về mặt ý chí | Sự lựa chọn hành vi phạm tội là sự lựa chọn duy nhất, chủ thể lựa chọn hành vi phạm tội vì chủ thể mong muốn hành vi đó | Người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, tức hậu quả xảy ra không phù hợp với mục đích phạm tội. Tuy nhiên để thực hiện mục đích này, người phạm tội để mặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra | Người phạm tội khi thực hiện hành vi đáng ra phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra |
| Nguyên nhân gây ra hậu quả | Có sự cố ý | Có sự cố ý | Do sự cẩu thả |
| Trách nhiệm hình sự | Cao nhất | Cao hơn | Thấp hơn |
| Ví dụ | C và D xảy ra mâu thuẩn, C dùng dao đâm D với ý muốn giết D. Rõ ràng C ý thức được việc mình làm là nguy hiểm và mong muốn hậu quả chết người người xảy ra. | B giăng lưới điện để chống trộm đột nhập nhưng không có cảnh báo an toàn dẫn đến chết người. Dù B không mong muốn hậu quả chết người xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc hậu quả xảy ra nên đây là lỗi cố ý gián tiếp | A là kế toán doanh nghiệp, khi nhập dữ liệu, A đã sơ ý bỏ sót một số 0 trong số tiền cần chuyển cho đối tác, hành vi này của A đã khiến công ty thiệt hại, trong trường hợp này, A là kế toán và phải biết được chỉ một hành vi sơ xuất cũng sẽ gây ra những hậu quả không mong muốn. |
Nội dung bài viết:
Bình luận